một trà một rượu một đàn bà

Một trà một rượu một đàn bà, Tạo một quyển sách; Phiên bản để in; Tải về EPUB; Tải về MOBI; Tải về PDF; Định dạng khác; Ngôn ngữ khác. Thêm liên kết. Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 6 tháng 10 năm 2017 lúc 07:40. Ba Cái Lăng Nhăng (Tú Xương) Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà! Bài thơ hay các bạn vừa xem là bài "Ba Cái Lăng Nhăng" của tác giả Trần Tế Xương . Thuộc danh mục Thơ Tú Xương Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chưà được thứ nào hay thứ nấy Có chăng chưa rượu với chừa trà! RÉT ĐẦU MÙA NHỚ NGƯỜI ĐI PHÍA BỂ (CHẾ LAN VIÊN) Cái rét đầu mùa, anh rét xa em Đêm dài lạnh, chăn chia làm hai nửa Một đắp cho em ở vùng sóng Và bạn yêu thơ có thể dùng câu trên đối lại câu từng ám ảnh bao trang nam nhi chi chí: Một trà Thái Nguyên Thái Nguyên, một rượu, một đàn bà… Thơ về trà Thái Nguyên và trà Thái Nguyên với thơ cũng không kém cạnh. Có điều, bổn tính trà Thái Nguyên khiêm cung lại nghiêng Từ lâu, một nhà nho có tên tuổi ở nước ta đã tự bạch: "Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó hại ta Chừa được thứ nào hay thứ ấy Có chăng chừa rượu với chừa trà?" Có chị đứng soi gương một lúc lấy làm tự mãn, quay ra thách chồng: Mann Mit Haus Sucht Frau Bayern. Một Trà, Một Rượu, Một Đàn Bà… Thái Thụy Vy Ông Tú Vị Xuyên, khi viết ”Một trà, Một Rượu, Một Đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được cái nào hay cái nấy Có chăng chừa rượu với chừa trà…” Có lẽ ông Tú Xương muốn làm vui lòng bà Tú, chứ sự thật ai đã nhận là đệ tử Lưu Linh, đều biết là khó chừa rượu khi dính vào bức tường thứ nhì cuả thiên hạ, vì ma men cũng hành hạ nhức nhối không thua gì ba thứ ma kia, là ma túy, ma bạc và ma nữ, mà lại là ma nữ đa tình nữa; tôi không dám bứt dây động rừng như anh bạn thân bảo là ma thứ tư đáng sợ nhất vì là ma femme!!!. Nhắc tới ma men, tôi xin lạm bàn đến một đề tài mà nhiều người thường hay lách có nên uống rượu hay không, rượu nào tốt cho sức khoẻ? Rượu nếp than, rượu đậu nành, rượu cần, cơm rượu hay rượu ba xi đế? Mới đây theo khảo cứu của USDA là Bộ Canh Nông của Hoa Kỳ, thì FDA Food and Drug Administration, cơ quan chuyên phụ trách việc dán nhãn cho thức ăn uống và thuốc sẽ bật đèn xanh khuyến khích cho các hãng rượu tình nguyện được dán nhãn trên chai rượu chát đỏ còn gọi là rượu vang, thường nồng độ 12 là uống một ly rượu chát trong bữa ăn thường giúp ích trong vấn đề tiêu hóa và hạ chất béo cholesterol tổng quát trong máu. Dựa trên thống kê là dân Pháp là dân bơ sữa nhưng rất ít bị nghẽn tim và nghẽn mạch máu do thói quen dùng rượu chát trong bữa ăn. Tin này rất phấn khởi cho giới ăn nhậu thường phải biện hộ “Nam vô tửu như kỳ vô phong” Trong bài nói về nghệ thuật sống này, tôi không muốn nói nhiều về bia từ đến 6 độ, trong lúc đó tại Bỉ quốc có tới 600 loại bia theo Burt Wolf phần lớn do các cha dòng tu Père Trappist bán tại nhà dòng mà nồng độ tới 12 nhưng không bán ngoài tiệm, là thức uống bình dân; rượu mùi liqueur, cognac, cordials, là thức nhậu của dân cao thủ chuyên nghiệp nồng độ 40. Trong bài này, tôi chỉ dám lạm bàn đến nghệ thuật ăn uống có liên quan đến sức khoẻ thôi. Hồi mới đến Mỹ du học, tôi chóa mắt với các động vật fauna, và thực vật flora, hoa cỏ ở Mỹ vì tôi vốn yêu vạn vật. Về sau, tôi mới khám phá ra cây dại ở Mỹ thật là vô tích sự. Đẹp mắt nhưng không ăn được như các loại trái cây hoang ở Việt Nam ta trái bứa, trái duối, trái mắm, trái trường, trái sấu, trái say, trái say lông, trái cơm nguội một giống của trái trâm, trái hồng nhung, trái quần quân, trái thanh long, trái dâu tầm ăn mulberries, trái trứng cá, trái chùm ruột, trái mây, trái bần, trái nhàu noni, trái bàng, trái me dăng giống trái phượng đỏ nhưng hình cong, flamboyant, trái điệp, trái sim, trái mua, trái táo gai, trái chùm bao, trái giấy, trái thù đù, trái bòn bon, trái dâu, trái keo, trái trôm, trái ngâu, trái thị, trái ô môi, trái gấc, trái chuối lửa, chuối hột, các loại hạt như hạt dưa, hạt dẻ, hạt bí rợ, hạt hướng dương bông quỳ và nhiều loại trái nữa có liên hệ tới tuổi thơ mà tôi không thể nào nhớ hết… chỉ biết có một số sau này đuợc trồng trọt nhờ đuợc nhiều người ưa thích domesticated, cultivated. Cho đến khi một người bạn Mỹ chỗ tôi theo du học rủ về nhà chơi. Gia đình anh có cho tôi ăn một loại nho dại mà người Da Đỏ bản xứ thường gọi tên là Scuppernong. Mãi về sau, nhờ tìm hiểu tôi mới biết nó thuộc loại nho mang tên Muscadine, cùng họ với loại nho Muscat mà người Pháp dùng để làm rượu vang Muscadet, tuy lớn hơn loại nho thường gấp ba lần, thơm mùi lạ hơn và nhiều hột hơn hai loại Suprême Muscadine và Darlene Muscadine trồng đo được 1 inch 1/4 chiều ngang cho mỗi trái màu đồng đen hay màu tím than. Tiểu sử Muscadine được mô tả lần đầu tiên bởi Sir Walter Raleigh, hồi năm 1584, khi ông đổ bộ miệt North Carolina. Muscadine bao trùm cả khu Đông Nam của Hoa Kỳ. Ông đã thấy giống Vitis rotundifolia Scoppernong mọc lan tràn trên đồi nương, cũng như thành khóm và leo cả lên tới ngọn các cây trắc bá diệp, cả Thế Giới Mới chưa có loại giây leo nào um tùm, sầm uất bằng Muscadine. Lúc bấy giờ, tôi mới nhận ra là nước Mỹ được Trời đãi. Trước đây, người Mỹ, vì muốn cạnh tranh rượu nho của Pháp, đã bỏ tiền mua cả cái lâu đài của Pháp, giở từng viên gạch, đem về California ráp lại kể cả các thùng đựng rượu bằng cây sồi chêne của Pháp, đã từng giựt giải rượu nho ngon của Mỹ, bán mắc tới 10 lần rượu nho của Pháp, vẫn chưa đạt được vị chát cố hữu mà vẫn vị chua truyền thống của rượu nho Mỹ. Nhiều nhà khảo cứu bắt đầu tìm ra giá trị dinh dưỡng health foodcủa Muscadine và nhiều triển vọng phát triển của một loại nho hoang sau hơn 400 năm khám phá. Muscadine được Đại học Mississipi phối hợp với USDA-ARS Small Fruit Research Station ở Popularville, Mississipi, trồng thử năm 1990, mổi mẫu cho từ 8 tới 18 tấn nho, 1 triệu gallon nước nho tươi bán giá 7 triệu đô la. Muscadine dùng làm rượu nho, các loại mứt nho, si rô, và toppings cho các loại ăn sáng và tráng miệng. Và quý hơn cả là Muscadine chứa chất Resveratrol là chất hoá học phytochemical rất gần gũi với chất Flavonoids trong rượu nho của Pháp, vì cũng là chất phytochemical nên có tác dụng làm bớt đóng các chất béo trong thành các tĩnh mạch, che chở chúng khỏi các loài sâu bọ và các thứ bệnh cho thực vật đồng thời là chất thiên nhiên làm giảm đông máu, có rất nhiều chất carbohydrate mà ít chất béo và ít chất đạm protein; Muscadine còn chứa nhiều chất sợi fiber; vài chất khoáng sản hữu ích giúp cho việc giảm áp suất huyết, chất béo trong huyết tương, và lượng Cholesterol tổng quát. Nó có khả năng khử oxyt hóa antioxidant ngăn ngừa, che chở các bịnh về tim, các bịnh về ruột, và bịnh ung thư ruột già. Chúng ta đã biết là các chất sợi còn có ích cho các người tiểu đường diabetics qua cách làm chậm sự thẩm thấu đường glucose và làm tăng sự nhạy cảm chất insulin trong các bắp thịt thuộc đầu. Trong một phúc trình của báo Science vào tháng Giêng năm 1997 của Đại học Illinois ở Chicago, chất Resveratrol được tinh chế từ nguồn gốc Muscadine là chất hoạt động chống ung thư anticarcinogenic activity, có nghiã là chúng ngăn ngừa sự thành hình các bướu ác tính malignant tumor gây ra bởi một vài chất hóa học. Vì trái Muscadine có da dày và ít nước cốt hơn loại nho thường, nên xác quả nho có từ 900 tới 1000 cân Anh trong một tấn, họ phải dùng để nuôi gia súc và làm phân bón, về sau nhờ bà Betty J. Ector, một nhà dinh dưỡng học của đại học đường Mississipi tìm ra phương pháp nghiền nhuyễn purée và phân tích cả vỏ lẫn hột Muscadine, mới tìm ra giá trị vô song của nó. May mắn là Muscadine có mùi vị thơm ngon đặc biệt, nên họ còn dùng một loại Muscadine nhỏ hơn, giống không hột Fry Muscadine để trộn vào muffin ăn sáng và trộn vào thịt bò bầm có 15-20% chất béo để tăng thêm chất Resveratrol. Bàn về rượu Pháp, rượu Mỹ, tôi muốn mở ngoặc ở đây. Chuyện cũng dễ hiểu, vì giới tiêu thụ Mỹ quá hoang mang về lời khuyên và trên nhãn hiệu các loại rượu nho Mỹ mà cơ quan công quyền liên bang phụ trách là Department’s Bureau of Alcohol, Tobacco and Firearm thuộc Bộ Ngân Khố Mỹ còn mơ hồ huống chi giới tiêu thụ. Tôi không hề đả phá hay chỉ trích việc đem Thần Rượu Bacchus của Hy Lạp ra để quảng cáo rượu không được nguyên chất và tinh khiết, và lối dán nhãn của các công ty rượu Mỹ, nhưng vì đã có xảy ra các vụ kiện tụng giửa Pháp và Mỹ về nhãn hiệu rượu nho. Tôi chỉ lưu ý các bạn thích uống rượu nên đọc kỹ nhãn hiệu trước khi mua. Nếu khẩu vị các bạn chỉ cần tinh tế một chút xíu thôi, các bạn sẽ nhận ra rằng Bordeaux Pháp hương vị dịu hơn rượu nho đắt tiền ở Napa Valley, là trung tâm rượu nho nổi tiếng ở California. Mặc dù ngày nay, người Mỹ đã mướn người Pháp rất cao giá qua để học bí quyết nghề cất rượu nho, Champagne và Cognac!!! liquors, cordials. Trước đây, Mỹ chỉ nổi tiếng về Whiskey gốc gác Tô Cách Lan và Bourbon mà chúng ta thấy các anh cowboys nốc trong phim như hũ chìm, như ngưu ẩm… Tác giả Dan Berger báo động là có một loại rượu chát lấy tên nghe rất kêu “Les trois Petites Cochons”. Nghe rõ ràng rất Pháp, nhưng hỏi ra không rõ xuất xứ, vì người bán rượu lậu này bán từ xe của anh. Lại có một kẻ buôn rượu lấy tên rượu hiệu HMR Winery ở Paso Robles, CA. Nhìn từ xa, rõ ràng giống y nhãn hiệu Domaine de la Romanee-Conti, với chữ ký giả bên dưới, và chữ Burgundy thì không viết hoa. Hãng rượu Pháp kiện và đã thắng, kết quả rượu vang kể trên phải rút ra khỏi các kệ trên thị trường. Một thí dụ tân thời hơn, hãng E&J Gallo Winery ở Modesto, cũng California phát hành chai rượu Gossamer Bay Chardonnay. Trong lúc trên kệ lại chưng bày Gossamer Bay Merlot, giống hệt nhãn rượu Chardonnay nói trên… với dòng chữ nhỏ làm tại Ý Đại Lợi??? Ngày nay, lại xảy ra một loại nhãn hiệu mới, làm kỹ nghệ rượu vang Mỹ bị suy thoái và bị hăm dọa trầm trọng. Theo luật Liên Bang Hoa kỳ, thì rượu trong chai phải chứa ít nhất 75% chất nho ghi trên nhãn hiệu. Sự thật thì rượu đó chứa 50%, hay ít hơn nữa miễn cầu chứng và FDA chấp thuận với hàng chữ Special With Natural Flavors với tên của loại nho varietal grapes là được. Giới sành điệu và lịch lãm lại nghĩ khác, nếu nhìn nhận kiểu nhãn đó, thì rượu vang pha nước lã có chứa 75% nho hay ít hơn cũng có thể gọi là Chardonnay with Natural Flavors hay French Colombard with Natural Flavors sao? Như thế có nghĩa nếu rượu chứa 50% nho, với 25% nước lã, hãng rượu sẽ trộn một cách hợp pháp một loại Chardonnay chỉ có là nho nguyên chất còn lại là nước lã và mùi vị hoá học thôi sao? Điều đó chúng ta không lấy làm lạ là trên thế giới các nước sản xuất rượu nhiều nhất là Ý, Pháp rồi đến Tây Ban Nha, nhưng chỉ có nước Mỹ là nước duy nhất bán rượu vang với chai gallon gần 4 lít hay vào hộp 5 lít mà thôi. Các hãng rượu ở California đã lưu ý ATF, để ổn định lại nhãn hiệu và chấn chỉnh lại luật lệ, cho tới giờ phút nầy, khi chúng ta dùng rượu chát Mỹ là phải chịu loại pha chế cho tới khi nào ATF thay cách dán nhãn hiệu. Trong lúc đó rượu nho của Pháp được phân loại đúng theo luật pháp đã qui định, luôn luôn được tăng cường để bảo vệ cả danh tiếng của rượu lẫn người dùng. Nói chung rượu nho Pháp có bốn loại chánh – Loại AOC Appellation d’Origine Contrôlée là loại rượu ngon nhất và được luật pháp qui định khắt khe nhất. Khi mua, nhớ tìm nhãn có tên như D’origine Appellation Beaujolais Contrôlée. – Loại AOVDQS Appelltion d’Origine Vin de Qualité Supérieur tương đương gần kế các hạng rượu trên về phẩm chất cũng như về kiểm soát. – Loại Vin de Pays Trừ các loại AOC của miền Alsace, phần lớn đều chứa 100% loại nho được dùng trong loại này. Rượu vùng Pays de Languedoc-Roussillon đã nổi tiếng với các loại varietal wines, thường gọi chung là Vins du Pays d’Oc. Các rượu trên được coi như thượng thặng, đầy thi vị lãng mạn của miền quê nước Pháp. – Loại Vin de Table Là rượu dùng thường nhật trên bàn ăn của người Pháp, tượng trưng cho 70% rượu tiêu thụ. Nó được cung cấp đều đặn về phẩm lượng và không cần phải để lâu năm. Khi mua rượu nho Pháp, chúng ta chỉ cần để ý màu sắc, hương thơm và mùi vị, để đánh giá về phẩm. Dẫu rượu đỏ, trắng hay hường rosé, màu sắc phải trong sáng. Mùi vị của rượu sẽ cho bạn biết bốn vị chánh là chua, ngọt, chát và mặn trong số 2000 hương vị trong trời đất. Nếu chúng ta chao đều ly khi nếm thử trước khi ăn hoặc uống mới hưởng đầy đủ được hương vị và lạc thú trời cho. Rượu đỏ có thể để lạnh 65 độ, nhưng đừng bao giờ đông lạnh, mùa hè có thể thêm tí đá vào. Không cần phải dùng nhiều loại ly khác nhau ly hình hoa tulip cũng đủ rồi. Nếu là rượu Champagne, thì nên dùng ly ống sáo flute để được nhìn sủi tăm sẽ thích thú hơn. Chúng ta đại đa số đều muốn biết nên uống rượu vang nào, đúng với thức ăn nào? Để cho là người sành điệu. Thực ra, rượu chánh là để vui thú với bạn bè, còn phù hợp pairinglà do ở sở thích của bạn. Tuy nhiên, để đạt étiquette, chúng ta thử tìm hiểu thêm về cái đệ nhất khoái này. Rất nhiều nước sản xuất rượu, nhưng nước Pháp là nước coi việc cất rượu là một việc làm phải yêu thích và tôi luyện, và phải đổ mồ hôi như một loại tiểu công nghệ tinh xảo. Dĩ nhiên, khi thành một tiểu xảo đã hoàn tất như một nghệ thuật, nó phải được bảo vệ bởi một hệ thống bảo mật thật chặt chẽ cho từng chai họ sản xuất, che chở bởi luật lệ hiện hành thật đúng mức và chu đáo. Họ có cả luật lệ ấn định kích thước trại trồng nho, luật lệ sản lượng hàng năm, và cả luật pháp ấn định loại nho nào được trồng ở vùng nào. Ở Bordeaux, tỉnh Gironde, các gia đình gốc quý tộc cự phách Lafite Rothchild, Latour, Margeaux… có 115,000 mẩu, sản xuất hàng năm 600 triệu lít rượu vang đạt doanh số tỷ đồng francs. Sự xếp hạng rượu bắt đầu từ năm 1855. Tại Medoc có đến 71 lâu đài có vườn nho mênh mông chuyên sản xuất rượu được xếp hạng Grand Puy Médoc. Vùng St. Émillion có những loại rượu được xếp hạng trên nhờ chất lượng, bao gồm cả hương vị, màu sắc, độ đậm đặc, cũng như mức thay đổi hương vị với thời gian, vì nhiều loại rượu vang cất giữ càng lâu thì hương vị càng đậm đà. Rượu nho vùng St. Émillion đạt được chất lượng lừng danh là nhờ yếu tố thổ ngơi. St. Émillion là vùng đất sét pha cát, dưới đất có nhiều chất vôi và đá. Rượu nho của vùng này đậm đặc chất cồn nhưng màu sắc nhạt hơn. Đất vùng Médoc trên mặt sỏi đá, nhưng bên dưới nhiều cát, cho nên rượu nho tuyệt hảo cả hương lẫn vị, khó có rượu nào sánh kịp. Chính phương thức sản xuất cha truyền con nối đã tạo ra hương vị tinh khiết thách thức thời gian. Danh tiếng kỳ cựu, uy tín quốc tế của những nhà sản xuất, và trên hết, hương vị riêng biệt đã đưa rượu Bordeaux góp mặt trong rất nhiều nghệ thuật ẩm thực của thế giới. Khi bạn chọn một chai rượu vang Pháp, nó đã bao gồm cả lời hứa, bảo đảm về nguồn gốc lẫn phẩm chất. Chúng ta được cái thú là lựa chọn giữa một rừng rượu ngon với phẩm chất vô song và nhất là vừa túi tiền. Dưới đây tôi xin kính tặng các ông hoặc các bà cho đồng đều như tên các trận bão nhiệt đới đệ tử Lưu Linh và Bacchus một món quà nhỏ để quý vị khỏi phải lúng túng khi phải lựa chọn đệ nhất đẳng giải sầu – Rượu vang trắng ngọt vừa medium dry * Chenin Blanc để dùng chung với các thức ăn như mild và strong cheese fromage Pháp, các món tráng miệng appetizers, tôm cua, tôm hùm, hào, chem chép, gà vịt và các món ăn Á đông. * Johannisberg, Riesling dùng với fromage, dip, tôm cua, đồ biển có sauce nhẹ, cá nướng, gà vịt và các món Á đông. * Gewurtraminer dùng với các món cheese fromage, gà, chim trĩ, vịt, ngỗng, heo, bê, và các món Á đông. – Các loại vang trắng không ngọt dry; * Dry Riesling dùng với tất cả các loại cheese, tôm hùm, tôm cua, đồ biển như cá nướng, cá hồi salmon, heo, bê, và các món Á đông. * Sauvignon Blanc dùng hầu hết các món trừ cá hồi, pasta với sốt cà, gà vịt, ngỗng. heo, bê và các món Á đông. * Semillon đi với fromage nhẹ, dip, sò hến, chem chép, đồ biển nhẹ, cá nuớng, cá hồi, pasta với sauce crème, và các món Á đông. * Chardonnay đi với các fromage nặng mùi, sò hến, tôm cua, tôm hùm, các món đồ biển với sốt cà hoặc sốt crème, cá hồi, pasta sốt crème, gà, vịt, chim trĩ, ngỗng, gà lôi, heo và bê. -Loại Blush * Blush Riesling đi với fromage nhẹ, tôm cua, tôm hùm, các món đồ biển sốt nhẹ, cá nướng, và các món Á đông. -Loại rượu vang đỏ * Gammay Beaujolais dùng chung với các món Fromage nặng mùi, cá hồi, pasta sốt cà tô mát, gà, vịt, ngỗng, heo, bê và các loại thịt rừng game. Loại được gọi là Nouveau Beaujolais là loại rượu vang mới đầu mùa. Quá 2 tuần thì không được gọi là nouveau nữa. * Pinot noir dùng cho fromage nặng mùi, cá hồi, chim trĩ, vịt, ngỗng, heo, bê, trừu, dê, bò, và các loại thịt rừng. * Merlot dùng với fromage nặng mùi, pasta, chim trĩ, vịt, ngỗng, heo, bê, dê, bò, các loại thịt rừng như nai, nhím, cheo và đồ tráng miệng có chocolat. * Cabernet Sauvignon dùng với các loại fromage nặng mùi, pasta sốt cà, trừu, thịt rừng, bò và chocolat. * Zinfandel đi cặp với các loại fromage nặng mùi, pasta sốt cà, trừu, bò và các loại thịt rừng. – Loại rượu ngọt tráng miệng dessert wines * White Riesling, Late harvest White Riesling, Late Harvest Sauvignon Blanc, Port dùng với các loại fromage, chocolat, và trái cây. Ngoài ra phải kể một loại rượu nho ngọt đặc biệt mà không có bán ra ngoài, chỉ dùng để làm lể sacrament trong nhà thờ và phải được Vatican chấp thuận. Rượu lể này được các Linh mục dùng khi dâng lể, tùy theo mùa Pâques Phục Sinh thì dùng rượu lể đỏ, mùa hè thì dùng rượu vang trắng. Mùi vị rất giống rượu nho Dubonnet của Pháp, rất hạp với phụ nử, dùng để khai vị appéritif lẫn dễ tiêu hóa digestif. – Loại Sparkling Wines sủi tăm * Các thứ rượu không vị ngọt Extra Dry, Champagne Brut, Blanc de Blanc, và Blanc de Noir dùng với các loại fromage, dip, đồ biển đủ loại trừ rượu extra dry. Ngoài ra ta còn dùng Sparkling Wines với Gà Vịt, món Á đông và các món trái cây tráng miệng. Sở thích là một chuyện, còn thích hợp hay đi đôi với nhau là một chuyện, cần có sự sáng tạo trong sự pha chế concoction. Người Nga nổi tiếng nghiện rượu, nên họ quên việc giải phóng liberation mà chỉ chú trọng đến ăn nhậu libation thì các bạn hiểu sức mạnh của rượu ảnh hưởng trên cả một dân tộc như thế nào, như ma túy trong đó có Á phiện trong lịch sử Trung Quốc. Trong bài nầy tôi muốn nhấn mạnh một thức uống có lợi cho sức khỏe và nghệ thuật nhiều hơn. Điều độ là nguyên lý sống đẹp. Có người bảo rượu là nhất đẳng thần giải thiên sầu, nhưng có bạn lại bảo tôi càng mượn rượu, nỗi sầu càng thấm thía. Riêng đối với thi nhân, thì càng thấm càng tốt. Càng ngấm càng tốt. Có nhìn Sonny và Cher song ca với guitar, ca khúc Summer Wine ở thập niên 60 mới hiểu hương yêu mùa hạ, rượu nho và mặt trời. Có nhìn các cô thôn nữ Pháp vừa hát vừa dẫm lên nho tươi bằng đôi chân trần trong cái vạc bằng cây sồi khổng lồ vào một mùa hè của lảng quên, trong lúc các cô gái hái nho là các sinh viên khắp nơi về tìm job hè, đổ nho mới hái xong vào vạc, chúng ta mới thấy được cái lãng mạn dễ thương, cái men hồn nhiên của tuổi trẻ. Bài thơ “Nouveau Beaujolais, Mauriat và Em” tôi sáng tác để kỷ niệm một đời người, biết sống theo đam mê và tận hưởng các thú vui của trời đất. Nghiêng bình tân khổ rượu tươi Hương men từ tuổi đôi mươi dậy trào Tuổi nho cuối nắng mưa rào Khúc buồn nắng hạ rót vào môi son Mắt nâu chiu chắt tình con Hương yêu tinh chất bào mòn chiêm bao Tỉnh say ngây ngất đảo chao Ôi môi mắt ấy cõi nào cho anh Không giông thuyền cũng chòng chành Nghe hồn men dậy môi anh nhạc nồng. Thái Thụy Vy Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người còn tự hào về những thói hư tật xấu của mình. source from Quách Tố Vương Xin đọc câu chuyện vui sau đây “Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gã lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi – Ông là ai mà đứng trước nhà tôi? Gã lạ mặt trả lời- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui lòng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn đàn ông từ chối – Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc. Gã lạ trả lời – Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là gì, thì khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc. Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói – Vậy thì mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều Gã lạ mặt ngạc nhiên – Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn. Người đàn ông nói – Tôi chỉ muốn vợ tôi nhìn thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi! Như ông Tú Vị Xuyên “Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.” Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái Ăn, ngủ, ấy, ể. Những cái khoái của ông Tú là “Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui 1- MỘT TRÀ Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà thì nghe chồng gọi “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.” Trà là thức uống thanh nhã của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè. Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau. Bà vợ ngạc nhiên la lên “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hãi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?” Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay tìm một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta tìm ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn. Trà uống có nhiều cách. Có người tính tình giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào bình rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đã thì thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.” Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. Còn nước giếng thì phải trong, ngọt và không có phèn. Bậc vua chúa uống trà còn cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái lò than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không còn khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái bình bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp bình lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống. Loại bình trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần. Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một mình vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời. Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với mình gọi là đối ẩm. Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra còn trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và còn nhiều nữa. Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ vì vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không còn nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào phòng tắm vét hết số nước còn lại trong một cái xô” đem nấu trà đãi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật gì, cố gắng khạc ra thì là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem thì không có loại trà nào là Ô Lông cả.. Còn một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm. II- MỘT RƯỢU Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản. Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở còn tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho. Bậc vua chúa ngày xưa, đã biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ. Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ chìm. Lã Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lã Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đã ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống dòng sông Dịch chửi thề – Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công thì ông đíu thèm qua sông nầy nữa. Và lần đó Kinh Kha đã hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh. Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu thì chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà còn phải nhập vào linh hồn của rượu nữa. Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu thì có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo. Thứ nhứt rượu đã ngà ngà, Thứ nhì chàng ở phương xa mới về. Chàng ở phương xa mới về thì phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. Còn rượu đã ngà ngà thì không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi. Lờ rằng lờ chẳng sợ ai Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ. Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. Vì vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say. Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu thì tìm cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon thì chém chết cũng đòi rượu mà đòi rượu coi như sụp bẫy các bà. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi. Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon thì nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong lòng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự thì còn gì bằng Một ly nhâm nhi tình bạn Hai ly uống cạn lòng sầu Ba ly mũi chảy tới râu Bốn ly ngồi đâu gục đó Năm ly cho chó ăn chè Sáu ly vợ đè cạo gió. Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt Sparkling wine thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v…v… Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đã nói một câu để đời về rượu Champange – Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng. – Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu. Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay chát trắng và loại Pinot noir chát đỏ của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đã hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange còn rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây. Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là – Lứ chía pừng hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? Vì quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái. Ngoài ra còn Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách. Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu thì hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi vòng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra còn rượu Bình tây, rượu nếp than. Sau năm 19 75 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ. Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết. Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền thì uống ngàn chung cũng còn quá ít. “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua là tại không tiền không mua.” III- MỘT ĐÀN BÀ Như trên đã nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn tìm hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn gì để thắt mắc. Ca dao có câu Còn ăn, còn ngủ, còn gân, Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi? Ăn không được, ngủ không được làm gì có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được thì thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà gì cũng có thể bỏ được, còn món đàn bà thì vô phương Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được. Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. Sáng Thế K. 2 21, 22. Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn thì bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn. Nhìn lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa. Còn ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng vì nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng vì cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng vì “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đã nói Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh chìm được con người. Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại “Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại còn được sống trong chế độ ba nuôi Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi. “Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.” Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột tìm trâu, tối ngày mò tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng Từ anh chồng cũ đến chàng là năm Còn như yêu vụng nhớ thầm Họp chợ trên bụng có trăm con người.” Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ trình của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ trình của các bà thênh thang như xa lộ không đèn. Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. / phan nguyên luân / … thực hiện Trang chủ Cười 24H Thứ Tư, ngày 05/09/2012 1108 AM GMT+7 Chừa được cái gì hay cái nấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà... Hôm nay 5 tháng 9 năm 2012, cách đây đúng 142 năm nhà thơ Tú Xương ra đời. Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên khai sinh là Trần Duy Uyên, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định. Ông chỉ sống ở trên cõi đời này có 37 năm nhưng đã để lại cho hậu thế hơn trăm bài thơ đủ mọi thể loại thơ từ Thất ngôn bát cú; tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc “thần thơ thánh chữ”. Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Nhân dịp sinh nhật ông, Cười 24H từ lâu vốn ngưỡng mộ ông, coi Tú Xương như ông tổ của dòng thơ hài hước, châm biếm Việt Nam xin mạn phép múa trộm “bàn phím” ít dòng để tỏ lòng tưởng nhớ đến tiền nhân. Tú Xương rất đẹp trai! Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương tuyệt nhiên không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú chắc chắn là cực kỳ đẹp trai, phong độ. Điều này được Cười 24H “suy luận” qua bài thơ của người bạn học tên Lương Ngọc Tùng tả về ông “Cùng làng, cùng phố, học cùng trường Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương, Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết, Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương. Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú, Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường. Mấy chục năm trời đà vắng bóng, Nghìn năm còn rạng dấu thư hương” Không đẹp trai sao được khi Trán rộng, da trắng, mồm tươi, mũi thẳng, mắt sáng, thư sinh? Cũng chính vì đẹp trai như vậy nên các cô gái mê Tú Xương như điếu đổ, đến nỗi mới 16 tuổi Tú Xương đã phải lên giường - xin lỗi, lên đường lấy vợ. * * * Tú Xương cũng mê tín? Cả cuộc đời Tú Xương hầu như chỉ gắn liền với thi cử, tổng cộng 8 lần, đó là các khoa Bính Tuất 1886; Mậu Tý 1888; Tân Mão 1891; Giáp Ngọ 1894; Đinh Dậu 1897; Canh Tý 1900; Quý Mão 1903 và Bính Ngọ 1906. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ 1894 ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ lấy thêm. Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão 1903 Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi vẫn trượt vỏ chuối, Tú Xương đã cáu sườn đến độ thốt ra thơ “Tế đổi làm Cao mà chó thế, Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!” * * * Tên Tú Xương được dùng để quảng cáo lò luyện thi! Ăn theo câu chuyện Tú Xương nổi tiếng thi hỏng, ngày nay có một trung tâm luyện thi đã quảng cáo rằng “Bạn có biết rằng có những người thi tới 8 lần không đỗ, mặc dù họ không hề kém, đó là ai, xin thưa đó chính là Tú Xương! Vậy tại sao Tú Xương thi 8 lần đều trượt? Bởi vì Tú Xương đã không tới luyện thi đại học tại trung tâm của chúng tôi. Hãy đến trung tâm luyện thi đại học X, địa chỉ Y, số điện thoại Z để có số phận khác Tú Xương”. * * * Tú Xương là nhà báo! Tú Xương có thể coi như là một nhà báo đầu tiên ở VN vì tính báo chí trong thơ ông thể hiện rất rõ trộm vía, nếu sống ở thời nay thì chí ít ông cũng là tổng biên tập một tờ nào đó. Thơ Tú Xương như một tấm ảnh ghi lại những gì xung quanh, nào là ăn cắp vào nhà pha, nào sư ở tù, mán ngồi xe, nào cảnh mẹ vợ ngủ với chàng rể, cô ký lấy lẽ Cũng rất gần báo chí là cái tư duy bám sát hiện tượng và sự vật của thơ Tú Xương. Ông thích mô tả, mà không thích tổng hợp vội, khái quát non. Nhân vật ông nói tới phải có cái tên cụ thể ông ấm Điềm, ông cử Nhu, ông đồ Bốn..., địa điểm xảy ra hành động cũng là những phố, những làng có thật Hàng Lờ, Hàng Nâu, Hàng Sắt Đặc biệt, với Tú Xương bắt đầu cả loạt thơ chân dung viết về đủ loại ông đốc, ông phủ, ông đội, ông lang, ông cò, cô đầu, lái buôn, bợm già, công chức thuộc địa Những con người có thật đó vào thơ ông sống động linh hoạt như ở ngoài đời mà vẫn gợi ra những ý nghĩ khái quát mà các bài báo sắc sảo phải có. Nhiều sáng tác của Tú Xương hình như được viết rất nhanh. Sự việc vừa xảy ra là ông có thơ ngay. Lại có những bài ông làm theo theo đơn đặt hàng của người khác, mà vẫn chân thành, sâu sắc và gửi gắm được tâm sự riêng của mình. Cái lối viết có vẻ như không cần cảm hứng này đích thị là một kiểu rất gần với báo chí hiện đại. Nếu là nhà báo, Tú Xương sẽ là một nhà báo viết được nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Trong khi bị gò bó ở thể thơ thất ngôn, ông vẫn tỏ ra là một ngòi bút phóng túng, có thể “xoay phỏm” đủ kiểu, từ phóng sự, đặc tả cho tới tạp ghi, phiếm luận, nhàn đàm... thậm chí là cả dịch thuật nữa. * * * Tú Xương là “thần tượng” của đàn ông Việt! Chỉ với 4 câu thơ, Tú Xương đã làm đàn ông VN đến tận hàng trăm năm sau vẫn tỏ rõ sự “ngưỡng mộ, biết ơn” khi ông đã nói rõ lòng họ một cách đầy công khai nhưng cũng thật... tinh tế trong bài thơ Ba cái lăng nhăng đáng được lọt vào top những bài thơ đi cùng năm tháng Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà! Xem một số bài họa * * * Tú Xương là người tình tuyệt vời của vợ Với đàn ông thì Tú Xương đã thành tấm gương cao cả, với phụ nữ Tú Xương cũng khiến họ có thể dâng hiến cả đời cho nhà thơ bởi những “tuyệt phẩm siêu nịnh vợ” với những dòng thơ như rút từ gan ruột của mình, đó là các bài “Thương vợ”, “Văn tế sống vợ”, hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương hiện lên đẹp đến mẫu mực như hình ảnh phụ nữ VN điển hình với những câu “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông...” Thương Vợ Dâng hiến cho chồng ở đây là Tú Xương cả vật chất lẫn tinh thần chưa đủ, trên thực tế vợ của nhà thơ còn dâng hiến cho ông đến tận 8 người con 6 trai, hai gái chứ “năm con với 1 chồng” là nhà thơ tài hoa và khỏe mạnh phong độ của chúng ta còn chưa “liệt kê” hết ở thời điểm sáng tác bài thơ “nịnh vợ” siêu kinh điển này. Cười 24H tin chắc rằng bất kỳ một người vợ VN nào “vô tình” đọc được những dòng thơ biết ơn và ngưỡng mộ vợ đến vậy trong nhật ký bí mật của chồng mà không nở một nụ cười mãn nguyện đồng thời nhũn như con chi chi và mất hết sức chiến đấu thì không thể nào là phụ nữ! Càng nói càng phục cái tài Tú Xương đến sát đất. Nói không ngoa thì đây có thể coi là một trong những “diệu kế” hàng đầu của “Binh Pháp trị Vợ”. Chỉ riêng điều này đã đủ để Tú Xương trở thành một Hưng Đạo Vương trong Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. * * * Chỉ duy nhất Tú Xương làm được Tú Xương còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử thơ phú Việt Nam Tú Xương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương, có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ “xương” với nghĩa "thịnh vượng" còn có nghĩa là đẹp, thẳng. Sách xưa có câu "Đức giả xương" người có đức, thịnh vậy. Không phải là xương theo nghĩa “xương thịt”. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "hư cấu", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương thịt lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, 21 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc... và ngay cả ở 24H cũng có Cử Tạ và Tú Jap, dù không nổi tiếng nhưng cũng nổi... tai tiếng viết tệ! * * * Với tinh thần ngưỡng mộ cụ Tú Xương cao độ, người viết bài này xin dẫn lại một bài thơ của chính mình phỏng theo lối thơ của cụ Tú để nói về những người đang ngày đêm noi gương cụ viết tiếp những dòng trào phúng, hài hước, châm biếm trên Cười 24H Chém cha cái kiếp viết truyện cười Hai tay ôm phím, mặt ngửa trời Ngó giống đười ươi cười sằng sặc Rặn ra một đống “những vui tươi” Chém cha cái kiếp viết truyện cười Ruột gan dẫu héo mặt phải tươi Mỗi ngày phục vụ bao độc giả Làm dâu trăm họ mệt đứt hơi Chém cha cái kiếp viết truyện vui Sếp chê truyện viết rất... dở hơi Dăm ba độc giả khen... thâm thúy Nhẫn tâm kẻ phán “Viết như b...” bò Chém cha cái kiếp viết truyện hài Gà chưa kịp gáy đã đăng bài Đêm hôm khuya khoắt bò trên Net Rình rập post tin buổi sáng mai Chém cha cái kiếp viết tiếu lâm Người yêu, kẻ ghét, đứa chê... hâm Vài cô ngúng nguẩy “Trình hơi thấp” Dăm chị ỉ ôi “chuyện quá... dâm”! hơ Trà ^^ Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà Tản mạn chuyện trà – la cà chuyện rượu Rượu chè, một trong mấy thứ ” tính tình tinh” nó quấy ta! Ấy… trong đời có mấy ai lại không dính dấp đến ” rượu hay chè” nhưng ông bà ta đã từng nhắc nhở chúng ta nên ” cẩn thận” ! Nhân dịp đầu Xuân, Bí Bếp mong “tán gẫu” cùng ACE về “sự cố” rượu chè hén… và để mở đầu câu chuyện, Bí Bếp xin dùng “trà” thay vì “rượu” để tiếp ACE trước hén. Trà đã gắn liền cùng văn hoá “ăn uống” của dân Việt nói riêng, và các dân tộc gốc Á Châu nói chung, đã lâu lắm, lâu lắm rồi! Theo truyền thuyết của mí chú thím Ba TQ thì ông tổ của trà bên Tàu là vua Thần Nông cũng là ông tổ của nghề thuốc Bắc và cũng là ông tổ của nghề nông! Có người cũng ” théc méc” là “nhân vật” vua thần Nông có thật hay chỉ là một sáng tác của ai đó chăng ? Đại khái thì truyền thuyết về Trà được kể như sau Vua Thần Nông, có tiếng là một trong những ông vua thuộc dạng “minh quân” và có tiếng là ” thương dân, mến nước”, nhất của người Hoa. Vua Thần Nông đã dạy dân TQ cách thức cày bừa, trị bệnh, và ngay cả một số cách thức “ăn chơi”. Vua Thần Nông thường xuyên đi chu du khắp nơi theo dạng “thăm dân cho biết sự tình”. Trong một chuyến “công du” ở miền Nam mạn Lĩnh Nam, hồ Động Đình, vua và tùy tùng tạm nghỉ chân dưới một tàng cây nọ. Vua cho người đun nước sôi thì trong lúc có một ít lá khô rơi vào nồi nước. Trong lúc đang mỏi mệt, vua ta vẫn uống nước đấy chứ không chờ đám tùy tùng nấu nồi nước khác. Một lúc sau, nhà vua cảm thấy trong người lâng lâng và sảng khoái nên vua cho lấy giống, trồng lại và phổ biến trong dân gian nên dùng loại cây lá đấy mà làm thức uống, rất tốt cho “xức phẻ”! Còn một thuyết khác thì trà đã du nhập vào Trung Hoa sau khi theo chân cùng một vị Tu sĩ Phật Giáo từ Ấn Độ Bồ Đề Lạt Ma cũng ngót nghét khoảng năm về trước. Trong suốt chín năm “thiền định”, Bồ Đề Lạt Ma đã không ăn gì ngoài uống một ít nước và ngậm lá trà để giúp ngài “tịnh thần” chống buồn ngủ trong lúc “thiền”. Chuyện ngậm trà hay uống “trà” trong lúc thiền của các tu sĩ Phật Giáo Trung Hoa hay Nhật Bản thì có khá nhiều “tình tiết” hơi giống nhau. Nếu dựa theo truyền thuyết đầu tiên của mí chú thím Ba thì trà đã lưu truyền trong dân gian Trung Quốc cũng đã ngót nghét năm rồi. Thực thế nếu ta dựa vào “sách vỡ” dạng “cổ thư” của họ thì ” trà” đã được nhắc đến như là một trong những “vị thuốc” từ phương Nam từ thời hậu “Xuân Thu Chiến Quốc” 200-100 BC. Thế mãi cho đến thế kỷ thứ 8 của thời Đại Đường, ông Lữ Dự, một văn sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ và một loạt “sĩ” của TQ mới viết một cuốn sách chuyên bàn trò ăn chơi của “trà” qua tựa đề ” Kinh Trà” Cha Ching]. Lữ Dự rất là tình tiết trong quan niệm trồng trà, hái trà, sấy trà, cất trà, uống trà, và cuốn “Kinh Trà” vẫn được xem là “mẫu mực” của cách thưởng thức “trà” của người Hoa từ trước đến nay. Cho dù trà có thể đã có rất lâu đời nhưng dựa theo “sách vỡ” thì trà trở thành một trong những sản vật được trao đổi giữa các dân tộc trong vùng Á châu theo con đường “tơ lụa” trên dưới mười thế kỷ qua. Trà có nơi đã được đúc thành bánh và dùng thế cho “tiền” trong các vụ mua bán, đổi bác giữa các dân tộc, nhất là các sắc dân sống ở miệt tây bắc Trung Hoa. Trà đã được du nhập và nước Nhật từ thế kỷ thứ 10 cũng theo chân cùng các tu sĩ Phật Giáo nhưng rất giới hạn cho đến thế kỷ thứ 15 trở về sau trà mới được phổ biến rộng rãi hơn trong nước Nhật. Từ từ, chúng ta sẽ “mạn đàm” về quan hệ “trà đạo” của người Nhật có quan hệ như thế nào với nghề “trà” của xứ ta hén. Trà, chiếu theo truyền thuyết dân gian của người Việt mình thì cũng đã kéo dài cả năm nay chớ ít sao . Trà là một giống cây Camellia sinesis mọc “hoang” từ Ấn Độ sang miền nam Trung Hoa, xuống đến mạn Đông Nam Á, nhất là ở các miền Cao Nguyên của Việt Nam, Campuchia, Mã Lai, Ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên người ta còn tìm thấy một số cây trà rất cổ vẫn còn sống chiết tính có thể lên đến năm tuổi. Sau năm Bắc Thuộc nước Việt Nam đã giành độc lập sau triều Đại Đường bị nhà Tống lật đổ – từ thế kỷ thứ 10 ,dù sao nền văn hoá Việt Nam, ngay cả nghệ thuật ” ăn uống” cũng bị ảnh hưởng không ít thì nhiều theo văn hóa Trung Hoa. Ngược dòng lịch sử một tí thì triều Tống bên Trung Hoa đã thay thế nhà Đại Đường kể từ thế kỷ thứ 10 cho đến lúc họ bị quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn tiến chiếm mà thiết lập nhà Nguyên gần cả 100 năm vào gần cuối thế kỷ thứ 13. Trong thời cực thịnh của triều Tống cũng là lúc nền văn hoá độc lập của Việt Nam cũng phát triễn khá mạnh bắt đầu từ Lý Công Uẩn và kéo dài gần suốt cả chín đời vua của triều Lý trong khoảng thời gian nầy. Nước Nhật lúc đấy lại bị triều Tống “cô lập” nên một số tu sĩ Phật Giáo và danh thương người Nhật đã dùng Việt Nam làm ngã du nhập ” văn hoá” cho xứ sở của họ. Nghệ thuật uống trà của Việt Nam điển hình là trà xanh và trà cụ đã được tiền nhân chúng ta cho xuất cảng sang Nhật trong giai đoạn nầy từ triều nhà Lý sang đến nhà Trần. Hiện nay tại một bảo tàng viện của người Nhật ở Kyoto cựu thủ đô của Nhật vẫn còn lưu giữ và chưng bày một số trà cụ từ Việt Nam mà họ đã nhập vào nước Nhật trong triều đại nhà Lý. Người Nhật vẫn xem đấy là những món đồ “quốc bảo”. Riêng trò chơi “trà” của người Việt chúng ta thì đã được phát triễn cực thịnh, trở thành một bộ môn chơi của giới quan quyền, thượng lưu trong triều nhà Nguyễn của thời cận đại. Điển hình nhất cho bộ môn trà trong thời Nguyễn là sự phát triển của trà ướp sen trong thời vua Tự Đức cung nữ bơi thuyền ra hồ sen trong buổi chiều, cho trà sấy vào mỗi đoá sen để lấy hương sen qua đêm, rồi bơi thuyền ra lấy trà lại vào buổi sáng ngày hôm sau… cho vua và các quan lớn thưởng thức loại trà ướp sen nầy. Phổ thông hơn thì trà đã gắn liền cùng đời sống thường ngày của người Việt chúng ta. Trà dùng không những được dùng làm một thức uống tiện dụng hàng ngày mà là một “sính lễ” không thể thiếu trong những dịp lễ trọng đại như ” ma chay, cưới hỏi”, và dùng để tiếp khách từ dạng “quốc khách” cho đến “thực khách” của hàng dân giả! Cụ Tú Xương, một trong những thi sĩ có thể nói là “chịu chơi” nhất trong làng văn học Việt Nam cũng đã từng than thở sự yếu kém của mình trước hấp lực của “trà” như sau Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà Cách thức uống trà phổ thông của người Việt thì thường không cầu kỳ như kiểu uống trà Trà tàu hay lề mề như trà Nhật Trà Đạo… Trà ta thường gói ghém ở dạng trà xanh mà nổi tiếng nhất là các dạng trà được trồng ở mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Giang, và sau nầy được trồng ở các vùng của Trung Nguyên Bảo Lộc, Đà Lạt, . Trà cũng được bày bán cho tầng lớp dân lao động ngày xưa ở dạng ” chè tươi” và sang hơn thì các loại trà tẩm hương nhài, cúc, sen, quế, Sau nầy, một số dân chơi lại khoái ” mode” trà túi trà Lipton và phổ thông hiện giờ thì trò ” trà sữa” của Đài Loan đã mọc như ” nấm” ở các thành phố và cộng đồng Việt từ trong cho đến ngoài nước. Riêng cách uống trà theo ” bài bản” của dân “sành điệu” dạng ” tao nhân mặc khách” ngày trước thì được gói ghém như sau Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh. Phần chính của trà ngon, phải là nước… nước thường là nước mưa được hứng ở giữa trời. Cẩn trọng hơn nữa, nước đun trà có người còn đi lấy từ các nguồn suối thiên nhiên, hay từ một số mạch giếng không bị ô nhiễm, rồi được mang về, che đậy cẩn thận cho đến khi dùng để “cất” trà. Cách nấu nước cũng hết sức quan trọng. Than thường được dùng để “đun” nước vì than không bốc mùi làm hư nhiễm ” mùi trà” như các loại củi khô, dầu hôi, hay các loại dầu khác. Nhiệt độ cũng thế sôi sủi tăm, đầu nhang, đầu đũa, thường là cách mà người trước phân định sức nóng của nước ngày nay thì ta dùng điều nhiệt kế cho chắc ăn. Sau đó mới đến loại trà mà ta chọn để ” cất” . Trà ta, thì đã nói thường là các loại trà xanh trà móc câu, trà Thái Nguyên, được cất ở khoảng sôi sủi tăm khoảng 80 độ C hay 165-170 độ F. Nếu trà tẩm hương trà sen, trà nhài, trà cúc, thì các cụ thường cất ở độ sôi đầu nhang khoảng 200 – 205 độ F như dạng ta ” ninh” nước lèo cho nồi phở. Các cụ tuyệt đối không dùng nước sôi để cất trà vì… nếu dùng nước sôi sẽ là ” cháy” trà… và trà trở nên ” chát ngắt” vì bị ” cháy”! Phần Bôi chén hay Bình trà ở đây thường là dạng chén cỡ hột mít hay mắt trâu . Bình hay ấm thì có bình chuyên và bình tống. Trước khi pha trà, các cụ dùng nước ” sôi” để tráng sơ chén và bình để làm nóng thật ra đấy là một hình thức tẩy vệ sinh và rửa trà nước đầu xong đổ đi… để cho trà nở đều trong nước mà cho ra hương vị đầy đặn nhất . Mỗi lần ” độc ẩm” , ” song ẩm” , ” tứ ẩm” , hay ” quần ẩm” thì các cụ lại đều có những loại bình đủ cỡ, đủ kích khác nhau. Như đã nói, nghề và kỹ thuật đồ gốm của người Việt thật ra đã khá phát triễn… từ lúc thủ đô nước ta đã được dời về Thăng Long Hà Nội ngày nay. Mới khoảng thời gian rất gần đây, Hà Nội mới khai quật được một số đồ gốm rất tinh xảo trong đời nhà Trần mà trình độ kỹ thuật không thua gì những tác phẩm đặc sắc của Trung Hoa! Phần ” ngũ quần anh” thì… “bạn trà” thường khó tìm hơn “bạn rượu”. Nghệ thuật uống trà cũng đã được các cụ cho vào hàng chiếu trên của ” tao nhân mặc khách” mà điển hình là thú nghe cô đầu hay hát ả đào mà chúng ta nghe đến sau nầy. Mèn, mí cụ ngày xưa nghe Hát Ả Đào dạng ca Trù mà được người đẹp có giọng ca thánh thót cỡ Mỹ Linh hay Ngọc Hạ pha trà Có thể theo bút pháp trào phúng mà trong bài thơ “Ba cái lăng nhăng”, nhà thơ Tú Xương nói chơi chứ không phải nói thật “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/ Chừa được cái nào hay cái nấy”. Ba câu này là kể, kể những cái “nhiêu khê” theo sắc thái hài hước. Người đọc băn khoăn hào hứng chờ nhà thơ “chừa” cái gì..., thì bất ngờ, là chừa cái sự “không nói ra” “Có chăng chừa rượu với chừa trà”. Thế là cả “ba cái” chưa hẳn đều “lăng nhăng”!? Tự trào Nguyễn Khuyến! Không chỉ là “nghệ thuật băm thịt gà”!? Bài viết xin chọn chứng minh “trà” như một chủ đề trong văn học nước ta. Theo học giả Đào Duy Anh, trong chữ Hán, “trà” là chè nói chung, nhưng trong tiếng Việt thì “trà” là chè cao cấp nên có “chè tười” lá chè tươi mà không có “trà tươi”. Thời trung đại, ngoài thơ Thiền, trà được nói nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Bài “Ngẫu thành” là cảnh sinh hoạt “Mây tỏa đầy nhà, mai đốt bách/ Tùng reo quanh gối, tối đun trà”. Sáng sớm mai đốt gỗ bách sưởi ấm nên có cảm giác “mây tỏa đầy nhà”. Buổi chiều có tiếng cây tùng reo quanh gối. Tối đến nổi lửa đun trà. Trong bài “Mạn hứng” là cảnh “Quét tuyết đun trà bên trúc ổ/ Đốt hương đọc sách dưới mái hiên”. Trong một bài thơ chữ Hán khác ông nói lấy chè trà làm phương tiện “rửa sạch lòng trần”. Ước mơ bình dị của bậc đại nhân, đại trí ấy lại chỉ là “Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây/ Để múc nước khe nấu chè và gối đá ngủ” Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác. Đấy là trong “Ức Trai thi tập”, thơ chữ Hán, trong thơ Nôm “Quốc âm thi tập”, chè trà được nói tới nhiều hơn. Chùm bài “Ngôn chí” có những câu “Cởi tục chè thường pha nước tuyết/ Tìm thanh trong vắt tịn chè mai”. “Tịn” tiếng cổ, có nghĩa là “tận”, là hết. “Tịn chè mai” là hết chè hồng mai rồi nên phải thay chè bằng “nước tuyết”, ý nói cuộc sống nghèo lấy cái thanh cao làm trọng. Lại có câu “Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng” tức ban đêm dậy uống chè hồng mai thưởng trăng. Trong chùm bài “Thuật hứng” có hai lần nói tới “chè tiên” “Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về” và “Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt”. “Chè tiên” là chè gì? Theo chú giải của Đào Duy Anh thì “tiên” nghĩa là nấu, “chè tiên” là đun, nấu nước chè trà. Chữ “tiên” nghĩa là nấu này đến nay hầu như không còn dùng. “Ghín” từ cổ nghĩa là gánh. Câu thơ tả cảnh gánh nước đêm về nấu chè nên ánh trăng in vào thùng, gánh nước cũng như gánh cả trăng nguyệt đeo về! Đối ẩm! Như vậy Nguyễn Trãi ưa dùng chè và thường dùng vào buổi tối, ban đêm. Khác với tập quán sau này của nhiều người uống chè vào buổi sớm Bình minh sổ chản trà. Hai câu quen thuộc của ông nói về chè, nhiều người thuộc “Say mùi đạo, chè ba chén/ Tả lòng phiền, thơ bốn câu” “Thuật hứng 13”. Ở đây là một quan niệm mượn thú uống chè trà để suy ngẫm về đời, về “đạo” có thể hiểu là đạo lý, đạo trời, đạo nhân.... Liệu có khỏi suy diễn khi coi Nguyễn Trãi là người đầu tiên ở xứ ta nâng thú uống trà lên thành “đạo” trà đạo?! Cùng một quan niệm về sứ mệnh thơ ca nói lên tâm trạng lòng người. Chùm thơ cho biết Nguyễn Trãi làm khi về ở ẩn đầy tâm trạng phiền não nên lấy trà làm phương cách giải khuây. Chắc được dùng trà trồng ở nhiều nơi nên trong “Dư địa chí” ông viết tại châu Sa Bôi Quảng Trị có loại trà lưỡi sẻ tước thiệt rất thơm ngon. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có ba lần nói về chè trà. Khi Kim Trọng tương tư “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”. Khi Thúc Sinh mặn nồng với Kiều “Khi hương sớm, khi trà trưa/ Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”. Kết thúc cuộc tình với Thúc Sinh, Kiều phải vào Quan Âm Các “áo xanh đổi lấy cà sa”, có hai thị nữ trông nom “Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà”. “Hương trà” có thể hiểu là dâng trà khi tụng kinh niệm Phật!? Như vậy “trà” cũng được Nguyễn Du coi như một nét thi pháp để miêu tả hoàn cảnh, phân tích tâm lý nhân vật. Trong cái hoàn cảnh, tâm trạng Kim Trọng “Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng” về “bóng hồng” Kiều thì “trà khan giọng tình” như thổn thức, dằn vặt, trăn trở, muốn nói ra mà không/ chưa nói được... là tuyệt hay! Trong “Vũ trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ 1768-1839 tả việc uống trà ở xứ Bắc thời Cảnh Hưng thật tốn kém “Các nhà quý tộc, công hầu, con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ. Có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lượng bạc…”. Đúng với tính chất ghi chép mà ông kể khá tỉ mỉ về đồ uống trà, như “chén uống chè cốt cho nhỏ mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng. Đế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá. Lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi…” Lê Quý Đôn 1726-1784 có dịp vào Phú Xuân Huế mà tả cảnh uống trà “Binh lính cũng đều ngồi chiếu mây, có gối dựa. Bên cạnh đặt lư đồng, pha chè Tàu ngon để uống, dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau” “Phủ Biên tạp lục”. Trong văn học hiện đại, người nói hay, nói kỹ nhất về trà là Nguyễn Tuân. Đúng với phong cách đi tìm cái đẹp ở những cái kỳ lạ, trong “Vang bóng một thời” nhà văn tả thú thưởng trà như là một nghệ thuật sống. Trước hết phải có ấm “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bột, thứ ba Mạnh Thần”. Đặt lên chậu nước, nếu ấm nổi thì đúng là của Tàu... Chiếc ấm chuẩn phải hình quả sung, màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Ấm hình quả sung hay quả đào... cũng không được to quá, chỉ như nắm tay trẻ lên năm, đủ ba chén nhỏ. Vì to, nhiều nước thì mất hơi chè. Thế nên “chè tam” là vậy, ba chén, ba người uống. Không như uống rượu rượu tứ bốn người “thù tạc” đủ vai. Hơn nữa uống chè ngồi ba, vì còn “một chỗ” là vị trí để bếp và ấm đun trà. Cụ Nguyễn Trãi viết “Say mùi đạo, chè ba chén” là vậy, vừa hết một ấm chè, và cũng vừa đủ. Uống nhiều thì không phải uống trà. Uống rượu thì hơi men bốc lên, có khi mặt đỏ phừng phừng. Càng say càng muốn uống. Uống trà thì hương trà chảy ngược vào trong, phải chậm rãi, nhẹ nhàng, tâm phải thanh, lòng phải tịnh. Uống từng chút một, không còn là uống nữa mà là “thưởng”, thưởng trà...!!! Chè ba chén...!!! Quan trọng thứ hai là nước để pha trà. Không được là nước máy. Phải là nước mưa hoặc nước giếng khơi. Hoặc cho thuyền nhỏ ra giữa sông to múc về đủ dùng. Tuyệt nhất là bằng nước sương đọng trên lá sen. Tờ mờ sáng chèo thuyền thúng ra hồ để gạn từng giọt sương lóng lánh như những giọt thủy ngân đọng trên lá. Có người còn cho trà vào cánh hoa sen ướp từ tối hôm trước... Nước pha trà đun khi nào nổi tăm mắt cua là được không được để nổi tăm mắt cá… Chất cổ điển trong văn Nguyễn Tuân là đủ cả cái “kỳ” và cái “xảo”. “Kỳ” là kỳ nhân người lạ, kỳ vật vật lạ, kỳ thú thú chơi lạ... “Xảo” là tinh tế, tinh xảo, công phu “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Một nhân vật người ăn mày của Nguyễn Tuân hội đủ cái “kỳ” cái “xảo” này... Có một người ăn mày “cổ quái” toàn vào xin những nhà đại gia và cố giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì mới xin. Lần ấy đến xin nhà phú hộ giữa lúc chủ nhà cùng một vài khách đang ngồi dùng trà sớm. Chủ nhân hỏi hắn xin cơm thừa hay canh cặn. Hắn gãi tai, lễ phép xin chủ nhân cho được uống trà. Được phép, hắn xin muốn uống nguyên một ấm trà mới. Hắn giở cái bị ăn mày ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm… Bỗng chốc, từ thân phận ăn mày, người đó như trở thành một tiên ông vượt ra khỏi không gian, thời gian thực tại để đến nơi tiên giới. Người ta mới thấy đây đích thực là người sành trà, ung dung, tự tại, thong dong, khuôn mặt trong sáng thánh thiên như tiên như Phật, không chút bợn trần... Uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo mắt, chép môi đứng dậy, chắp tay và thưa “bình trà của ngài lẫn mùi trấu ở trong”. Hắn đi, cả nhà giật mình kinh sợ vì, ở lọ trà có đến mươi mảnh trấu... Lứa sau Nguyễn Tuân, nhà thơ Phùng Cung có mấy câu thơ để đời về trà “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Tả trà nhưng ý nghĩa thì vượt ra ngoài hình tượng. Có thể hiểu con người ta nghệ sĩ phải như thứ trà ngon từng trải qua cái xót xa đau đớn ở đời nhưng vẫn giữ được bản lĩnh không đổi giọng mới có thể đóng góp cái hương vị riêng của mình!? Ngày nay khoa học dinh dưỡng cho biết trà xanh giúp sảng khoái, làm tăng sự tỉnh táo, giảm nguy cơ ung thư, giúp diệt khuẩn, cải thiện sức khỏe răng miệng... Người Nhật Bản xem trà là một thứ “đạo” trà đạo như là một nghệ thuật sống, một sinh hoạt văn hóa, một thú vui tao nhã, di dưỡng tinh thần, tu tâm dưỡng tính. Thậm chí còn coi như là một tôn giáo truyền dạy đạo lý răn dạy ý nghĩa ở đời và làm người!

một trà một rượu một đàn bà