quai đê lấn biển là gì
Thời kỳ làm Doanh Điền Sứ (1827-1830), ông đã có công quai đê lấn biển, di dân lập ấp, xây dựng nên 2 vùng đất mới: Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình).
Mỗi năm vùng ven biển Kim Sơn lại được thiên nhiên ưu đãi, ban phát hàng trăm ha đất phù sa lấn ra biển. Ông Đoàn Quốc Trung - Phó trưởng phòng Phòng chống thiên tai, Sở NN&PTNT Ninh Bình - người đã đồng hành với hành trình quai đê đầy gian khổ ở vùng bãi bồi Kim Sơn chia sẻ, để giữ của "trời cho", công cuộc quai đê, lấn biển tiếp tục là cuộc đấu quyết liệt với "thần" biển.
Cho dù, ở phía Bắc và phía Nam của quận Đồ Sơn, có 2 cửa sông Lạch Tray và Văn Úc nằm trong hệ thống sông Thái Bình mang phù sa đổ ra biển, cộng thêm việc quai đê lấn biển xây dựng khu các resort cao cấp, đã khiến cho nước biển ở bãi tắm khu 2 bị xem là đục như bát
Đô thị du lịch biển là Hạ Long, Nha Trang, Hội An, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cát Bà, Dương Đông và An Thới (Phú Quốc), Đồng Hới, Cửa Tùng, Cửa Lò. Đô thị du lịch biển thường lựa chọn ở vị trí có cảnh quan đẹp, cao ráo và an toàn để phát triển.
Nói "tương lai", vì dự án mới được Chính phủ duyệt trên nguyên tắc, còn hàng loạt công việc nữa, có việc mới bắt đầu, có việc còn nằm trong dự định, mà lớn nhất là công cuộc quai đê lấn biển hàng mấy cây số, bao tháng nay mới ra đời được mỗi ban quản lý.
Mann Mit Haus Sucht Frau Bayern. Đã 200 năm từ lúc Nguyễn Công Trứ chiêu mộ dân nghèo đắp đê, bắt đầu cuộc lấn biển, những người nông dân phía cuối nguồn châu thổ ở Bắc bộ vẫn mang trọn khát vọng mở đất. Họ kiên cường ra quai đê, lấn biển, không chấp nhận bữa đói bữa no trong mảnh đất đồng bằng ngày càng chật hẹp. Và khát vọng chinh phục bãi bồi ấy bao giờ cũng đẫm mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả những phần máu thịt... - Kỳ 1 Cha, con và “cuộc chiến” lấn biển... Đứng trước bãi hoang trắng nước, ông Rễ bảo con rằng “Khoán 10, tư nhân được làm kinh tế rồi. Giờ nhà ta phải ra biển thoát nghèo thôi”. Và đó là cuộc trường chinh quai đê, lấn biển đẫm mồ hôi, nước mắt truyền từ đời cha đến đời con cháu ông Rễ. Lấn biển Tại sao cứ ì ạch đắp mãi rồi đê lại vỡ? ông Trong quyết định vượt sông sang Thái Bình xem người dân làm gì để giữ đê. Thấy cây bần, cây vẹt có tác dụng chắn sóng, ông nhổ mót cây nhỏ đem về trồng. Một chuyến, ông bị người dân sở tại bắt vào đồn công an. Chỉ khi bố ông đến giải thích, ông mới được thả. Cảm phục ý chí của ông, dân Thái Thụy còn tặng ông cả thuyền quả bần về ươm giống. Đó là kỷ niệm không phai trong hành trình lấn biển của cha con ông Trong bồi hồi kể nhà mình ở xã Nam Hưng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng có tám nhân khẩu, ruộng một mẫu, nhưng đất nhiễm chua mặn năng suất thấp, làm không đủ ăn. Còn biển thì cá tôm quá nhiều. Ông Rễ bảo các con trai “Phải đắp đê, quây bãi lại để giữ tôm cá, đánh bắt lâu dài. Muốn có của ăn, cái mặc thì phải làm chủ, chứ trông vào con nước triều sẽ nghèo mãi”. Ngay hôm sau bố con ông Trong lên xã Nam Hưng xin nhận đầm. Trước ý tưởng táo bạo của họ và bãi bồi hoang vu còn mênh mông, chính quyền giao hẳn cho bố con ông 100 ha. Không thể làm một mình được, ông Rễ kêu gọi người em ruột Lương Văn Hùng góp vốn cùng tham gia. Họp gia đình, ông Rễ nói quyết tâm “Đã làm thì phải làm cho ra tấm ra món, đừng mang tiếng lũ gàn dở đem vàng ròng, thóc thịt ném ra biển”. “Lúc đó người làm cho gia đình tôi đông hàng trăm người. Họ chia thành tổ, thành nhóm đào đất, quai đê. Chẳng có máy móc gì. Cứ hùng hục sức người đấu với biển. Từng hòn đất được đào lên, chuyền tay nhau ném xuống. Nhưng ác nỗi lúc đắp thủy triều cạn, sau một đêm triều vào thì sáng sau con đê mất đến bảy phần. Để đắp được một mét đê dưới bãi biển, đổ mồ hôi sôi nước mắt gấp ba, bốn lần trên đồng vẫn chưa xong”- ông Trong xúc động nhớ. Ròng rã suốt từ năm 1988 sang năm 1989 con đê mới thành hình. Ngày nó nhô lên mặt nước thì tiền bạc, kho thóc trong nhà bố con ông Trong cạn kiệt đến nỗi phải vay mượn khắp nơi. Con đê cao gần 2m, mặt đê cỡ 1,5-2m và không biết bao nhiêu công sức, tiền của đã được đắp vào. Đắp xong đê, đứng nhìn cá tôm nhảy rào rào trong đầm, nhà ông Rễ mừng đến rơi nước mắt “Chuyến này chả mấy chốc trả hết nợ”. Nhưng trời, biển đâu dễ thua sức người. Vụ đầu chưa kịp thu hoạch thì cơn bão số 6 năm 1989 đã xóa sạch tất tật. Cá tôm lại trở về với biển. Con đê đất cũng hòa tan vào sóng khi cơn bão qua. “Đã cưỡi lên lưng hổ rồi, đâm lao thì phải theo lao, nếu không làm tiếp thì lấy đâu mấy tấn thóc, mấy chục chỉ vàng mà trả nợ, rồi lại mang tiếng là gàn dở, điên khùng nữa” - ông Trong nhớ lời bố Rễ khích lệ sau thất bại đầu tiên. Bão qua, cả nhà lại tiếp tục lao ra biển, thuê cả trăm người làm đê mới. Nhưng việc đắp đê biển sau trận bão càng khó hơn. Nền bãi yếu khiến con đê mong manh nhiều lần sụt lở, vỡ bục. Một số anh em đã nản lòng, bỏ cuộc! Hùng hục đắp đê, trồng rừng mãi đến những năm 1992-1993, UBND huyện quyết định giao 50ha đất bãi ven biển cho họ. Để làm hiệu quả, ông Rễ chia đều 50ha đầm cho người em 20ha và năm con cháu của mình để từng người có trách nhiệm và nếu có bão thì có thể mất đầm này còn đầm khác. Phóng to Ông Toảnh trên cánh đồng tôm được tạo nên bằng công sức mở đất biển từ đời cha mình - Ảnh Quốc Việt“Cuộc chiến” trước biển Công cuộc quai đê, trồng rừng, khai hoang, lấn biển là cuộc đấu quyết liệt với “thần” biển, và hầu như bất cứ người dân nào thời đầu vươn ra biển đều phải hứng chịu những thất bại đau thương. Và người em út Lương Văn Toảnh của ông Trong là người “dính đòn” đau nhất. Toảnh khi đó vừa tròn 20 tuổi cũng được ông Rễ chia phần 6 ha đầm bãi. Nhận đầm rồi nhưng làm thế nào để khuất phục biển? Đó là câu hỏi ngày đêm Toảnh trăn trở. Anh bỏ cả tháng trời để ăn bên biển, nằm bên đê, lắng nghe từng cơn sóng thủy triều, mải miết tìm bài giải. Không có kinh nghiệm nào để học theo, nhưng những ngày đêm mày mò nhặt con ốc, bắt con cua biển suốt từ khi 15 tuổi đã nuôi ý chí khát khao chinh phục biển trong Toảnh. Khi đã thuộc từng con nước, Toảnh quyết “Phải tiếp tục đắp đê kiên cố mới chắc ăn”. Anh kể suy nghĩ của mình “Đê đắp ổn rồi, mình lại phải tính sử dụng hiệu quả. Nếu chỉ đóng - mở cống để tôm cá tự nhiên vào rồi giữ lại thì chẳng ăn thua”. Năm 1994-1995, Toảnh khăn gói rời làng vào Khánh Hòa học hỏi việc nuôi trồng thủy sản... Về làng, Toảnh tiếp tục nuôi quảng canh nhưng “cải tiến” bằng cách thả thêm giống, tăng thức ăn cho tôm, cá. Cứ tích lũy dần đến năm 2003, anh quyết định đầu tư lớn để nuôi tôm công nghiệp, ươm tôm giống. Đầu tiên, anh bỏ gần 5 tỉ đồng để dựng cột, kéo đường điện ba pha từ làng ra bãi. Rồi nạo vét cải tạo 1 ha đầm theo tiêu chuẩn nuôi công nghiệp, xây thêm nhà xưởng, ô chuồng ươm giống tôm. Vừa làm, vừa tích lũy, đầu tư và đến năm 2005 toàn bộ diện tích 6ha đầm của anh đã thành vùng tôm công nghiệp. Lúc này số vốn cộng với khoản nợ đầu tư 6ha đầm tôm công nghiệp đã lên tới gần 20 tỉ đồng. Nhưng trận siêu bão số 6 năm 2005 khắc nghiệt đã biến 6ha đầm tôm công nghiệp quy mô nhất nhì huyện lúc bấy giờ thành bình địa. Toảnh cắn răng đến bật máu, nước mắt hòa cùng nước biển! “Nếu không làm lại thì không thể sống được, chỉ có chết mới hết nợ”. Ngay sau bão, Toảnh lại phải thế chấp nhà cửa, vay mượn để làm lại, bắt đầu vẫn từ con đê. Và nỗi đau trong cuộc tái thiết này lại ập đến khi hai người làm của anh là Nguyễn Văn Nhất và Nguyễn Văn Báu đã bỏ mạng vì bảo vệ con đê trước biển. Cuối năm 2006, cuộc tái thiết 6 ha đầm tôm công nghiệp hoàn thành. Rồi câu chuyện những ngày đầu năm khi Thủ tướng kết luận về vụ việc ở Tiên Lãng đã giúp anh em ông Trong, ông Toảnh - những người nông dân mấy mươi năm đi lấn biển mở đất có thêm niềm tin, để thề trước bàn thờ ông Rễ bố mình rằng “Chúng con sẽ lại tiếp tục đổ mồ hôi trên bãi bồi lấn biển”... __________ “Ngày xưa, tay tôi móc từng cục đất đắp đê lấn biển chỉ mong có cái bén lửa nồi cơm. Giờ tôi vẫn ra biển vì còn bao người trông cậy mình”. Trên bãi bồi Tiền Hải, Thái Bình có một người quai đê, lấn biển thành công đã được vinh danh... Kỳ tới Bàn tay tóe máu
Danh từ bộ phận gắn vào vật, dùng để xách, mang hay đeo vào người quai túi dép đứt quai "Tròng trành như nón không quai, Như thuyền không lái như ai không chồng." Cdao Động từ đắp cho bao quanh một khu vực quai đê lấn biển Động từ vung theo hình vòng cung rồi giáng mạnh xuống quai búa tác giả Tìm thêm với NHÀ TÀI TRỢ
Tag quai đê lấn biển là gìTN&MT – Gần 200 năm từ khi cụ Nguyễn Công Trứ chiêu mộ dân nghèo đắp đê, bắt đầu cuộc chiến lấn biển, khát vọng chinh phục bãi bồi ở vùng đất Kim Sơn Ninh Bình vẫn được tiếp nối bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả những phần máu thịt của những con người kiên cường ra quai đê, lấn biển…Lùi về lịch sử từ những năm 1827, nhận thấy việc khai khẩn những rẻo đất hoang màu mỡ, kết hợp quai đê lấn biển theo các cồn cát đã được pha trộn đất phù sa trải dài khắp vùng cửa các dòng sông lớn đổ ra biển là một cách xóa đói giảm nghèo khá nhanh… khi đang quai đê Tiền Hải nay thuộc Thái Bình, Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ đã cho người sang Ninh Bình khảo sát thực địa, để chuẩn bị khẩn hoang sao cho xứng tầm với vùng đất giàu tiềm cửa biển ở Ninh Bình thời ấy vốn có tiếng là dữ dằn, gió to, sóng lớn. Cả một vùng bãi bồi, sình lầy, lau lách trải ra mênh mông, nên việc đi lại để quai đê đắp đường, đào sông gặp không ít khó khăn. Song nhờ tài tổ chức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo với 63 vị chiêu mộ, thứ mộ, nhân đinh, sau hơn 1 năm, cụ Nguyễn Công Trứ đã hoàn tất việc quai đê, lấn biển Kim bãi bồi Kim SơnKể từ đó đến nay, Kim Sơn trải qua thêm nhiều lần quai đê, lấn biển, chinh phục bãi bồi, xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi như ắp đê Bình Minh BM1 năm 1959 – 1960; đắp đê BM2 năm 1981; đắp đê BM3 năm 2008 và năm 2020 đắp đê BM4… đã tăng diện tích tự nhiên của huyện Kim Sơn lên bốn lần. Toàn huyện giờ đã có hệ thống đê quai dài hàng chục km, kiên cố che chắn sóng gió trong những ngày mưa bão. Những con đê quai bằng rọ đá, bề mặt đổ bê-tông sừng sững như bức tường thành cũng chính là giao thông huyết mạch của các xã ven biển…Mồ hôi, nước mắt, nụ cười… chinh phục biển cảLịch sử đã ghi nhận các thế hệ người dân Kim Sơn tiên phong, gắn bó với hành trình quai đê lấn biển, với biết bao mồ hôi, công sức, máu và nước mắt, đấu tranh vật lộn, vượt qua những khắc nghiệt của gió, của nước lập nên những kì tích trước thiên nhiên. Những người quai đê, lấn biển, có người thành công, có người thất bại. Và những ai không gục ngã, kiên cường đi trọn được con đường đầy thử thách này đã viết nên trang sử lấn biển đầy tự hào từ chính nghị lực và mồ hôi, nước mắt mình…Theo lời kể của người dân nơi đây, đê Bình Minh 1 được hình thành từ trước những năm 1970, hồi ấy máy móc chưa có, tất cả công việc lấn biển đều làm bằng sức người. Cả trăm lao động như bức tường thành trước sóng gió, xúc từng xẻng đất, chuyền tay nhau đổ xuống biển. Cứ hùng hục sức người đấu với biển cả. Từng hòn đất được đào lên, chuyền tay nhau ném xuống. Nhưng ác nỗi lúc đắp thủy triều cạn, sau một đêm triều vào thì sáng sau con đê mất đến bảy phần. Để đắp được một mét đê dưới bãi biển, đổ mồ hôi sôi nước mắt gấp ba, bốn lần trên đồng vẫn chưa xong. Có khi gặp bão tố dồn dập, tất cả ngậm ngùi nhìn đoạn đê mới tạm nổi lại bị sóng quật vỡ tan. Cứ thế, họ vẫn làm, làm bằng tất cả nghị lực và ý chí, con đê Bình Minh 1 cũng hình thành với chiều dài 7, năm vùng ven biển Kim Sơn lại được thiên nhiên ưu đãi, ban phát hàng trăm ha đất phù sa lấn ra biển. Ông Đoàn Quốc Trung – Phó trưởng phòng Phòng chống thiên tai, Sở NN&PTNT Ninh Bình – người đã đồng hành với hành trình quai đê đầy gian khổ ở vùng bãi bồi Kim Sơn chia sẻ, để giữ của “trời cho”, công cuộc quai đê, lấn biển tiếp tục là cuộc đấu quyết liệt với “thần” biển. Sau đê Bình Minh 1; đê Bình Minh 2 được đắp với chiều dài theo quy hoạch hiện nay là 25,2km. Đê Bình Minh 2 khớp nối với đê Bình Minh 1 tạo thành một vùng bãi bồi rộng 2000 ha trù phú thuộc địa bàn ba xã bãi ngang Kim Hải, Kim ông và Kim Bình Minh IV đang trong quá trình triển khaiNhớ lại hồi quai đê Bình Minh 3, ông Trung bồi hồi, khó khăn nhất khi quai đê lấn biển là địa nền, địa chất ở các tuyến đê rất yếu. “Hồi đắp đê Bình Minh 3, tôi cùng ông chủ đơn vị thi công đê thời ấy – thường xuyên ăn ngủ lại hiện trường. Có những hôm đã đắp đê quai, bơm nước đến lại bị biển động lớn, sóng đánh đê quai vỡ sạch, nước tràn hết vào trong hồ móng, hôm sau lại phải bơm lại từ đầu”, ông Trung ông Trung, thời điểm tiến hành đắp đê Bình Minh 3 đã thuận lợi hơn rất nhiều so với trước do đã áp dụng được những công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thi công. Nếu như trước đây đất đắp đê thường chuyển từ nơi khác đến, nhưng ở môi trường biển, nước thường xuyên lên xuống, có khi đất đổ xuống lại bị nước biển xâm nhập cuốn hết ra ngoài. Do vậy đơn vị thi công đã quyết định áp dụng “bơm đất tại chỗ để đắp đê”. Đê Bình Minh 3 hoàn thành đấu nối với đê Bình Minh 2 đã khoanh vùng đất lấn biển rộng hơn ha, nay là nơi nuôi trồng thủy hải sản của bà đê Bình Minh 4 vẫn trong quá trình triển khai, hàng chục km đê từ Bình Minh 1 ra Cồn Nổi đang kiên cường chặn đứng những ngọn sóng cuồn cuộn nối tiếp nhau mùa biển động. Bên trong, các đầm tôm, ngao bình yên chờ ngày thu hoạch. Dẫn chúng tôi đi tham quan bãi đầm lấn biển của mình, một người dân đang sản xuất tại vùng bãi bồi Kim Sơn rực ánh mắt nghị lực “Mang ý chí tiếp nối người xưa mở đất, người dân Kim Sơn năng động lợi dụng thủy triều để chuyển đổi đất bãi bồi, đất trồng cói trước đây kém hiệu quả sang nuôi tôm sú, nuôi tôm thẻ chân trắng, theo hình thức quảng canh, nuôi công nghiệp và nuôi theo dự án VietGAP”.“Đổi thay” đất bồi Việc người dân mở rộng nuôi trồng thủy sản ở vùng đê Bình Minh 1,2,3 và 4 đã khiến vùng đất này trở nên sôi động với hàng nghìn hộ làm nghề và tạo việc làm cho hàng chục nghìn người lao động từ dịch vụ nghề số liệu rà soát của UBND huyện Kim Sơn, đến nay, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến Cồn Nổi có hàng nghìn hộ dân đang sử dụng khai thác và nuôi trồng thủy sản. Trong đó, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến đê Bình Minh 3 có gần hộ với diện tích hơn khu vực từ đê Bình Minh 3 đến Cồn Nổi với diện tích gần với các tỉnh trong khu vực, nuôi trồng thủy sản ở Kim Sơn có nhiều thuận lợi bởi nơi đây giáp với vùng nội đồng nên có thể nuôi thả thủy sản dưới nhiều hình thức. Bên cạnh đó sự đầu tư lớn trong việc quai đê lấn biển đã giúp vùng nuôi trồng thủy sản của Kim Sơn có độ an toàn dự án đã và đang được triển khai ở vùng bãi bồi Kim SơnÔng Đinh Việt Dũng, Bí thư huyện uỷ Kim Sơn cho hay, những năm gần đây, xác định kinh tế biển đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Nhiều dự án đã và đang triển khai như Dự án nâng cấp đê Bình Minh; dự án cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản, hải sản theo hướng công nghiệp vùng bãi bồi ven biển, dự án đường giao thông,… qua đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nói chung và sản xuất, nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản vùng bãi bồi nói riêng…Sắp tới, tỉnh Ninh Bình cũng hoàn thiện quy hoạch chi tiết cho vùng kinh tế bãi bồi Kim Sơn. Đó sẽ là cơ sở tạo ra các hành lang phát triển bằng hạ tầng giao thông, tạo khu dân cư mới. Đồng thời, mở ra cơ hội phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ… ở vùng bãi giờ về bãi bồi Kim Sơn, Ninh Bình chúng ta mới thấy cảm phục ý chí kiên cường lấn biển, mở đất đến cùng của bao thế hệ người nơi đây trước thiên nhiên khắc nghiệt và cả những “cơn sóng gió” trong lòng người. Đó là thế hệ con cháu những nông dân nghèo khổ từng theo cụ Nguyễn Công Trứ đi quai đê, lấn biển, mở mang đất mới. Và họ tiếp tục đổ mồ hôi, nước mắt theo bước chân tổ tiên mình…Tag quai đê lấn biển là gì Hỏi đáp - Tags quai đê lấn biển là gìĐàn Ông Thích Phụ Nữ Hôn Ở Đâu? Bí Kíp Hôn Khiến Chàng Đê MêDải Hội Tụ Nhiệt Đới Là Gì? Việt Nam Có Chịu Ảnh Hưởng Của Dải Hội Tụ Nhiệt Đới Hay Không?Địa Điểm Hẹn Hò Hôn Nhau Kín Đáo Ở Sài Gòn Cho Cặp ĐôiKhông Gian Ba Chiều Là Gì? Tìm Hiểu Về Không Gian Ba Chiều Là Gì?TRẠM Y TẾ PHƯỜNG NGUYỄN CƯ TRINHChơi Gì Ở Hà Nội 15 Địa Điểm Vui Chơi Không Thể Bỏ QuaGiao Thoa Sóng Là Gì? Bài Tập Giao Thoa Sóng
quai đê lấn biển là gì