xã hội hóa giáo dục đại học
Tiểu luận Xã hội hoá giáo dục ở Việt nam hiện nay. Về cơ cấu bậc học: Sinh viên đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ quá cao ( 20% trên tổng số sinh viên), còn sinh viên trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều bất cập là cho đến nay thì, trong tổng số sinh viên, thì sinh viên kinh tế và luật chiếm tỷ lệ quá cao.
Tại Hội thảo, nhiều đại biểu cho rằng, sau gần 35 năm thực hiện đổi mới giáo dục, giáo dục đại học Việt Nam đã phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng hóa về loại hình và các hình thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh cơ cấu hệ thống, cải tiến chương trình, quy trình đào tạo, huy động được nhiều nguồn lực xã hội.
Sáng ngày 12/03/2019, tại Bình Dương, Học viện Chính trị khu vực II phối hợp với Trường Chính trị tỉnh Bình Dương tổ chức hội thảo khoa học "Xã hội hoá giáo dục - đào tạo ở Bình Dương: Thực trạng và định hướng chính sách". Hội thảo là một trong những hoạt động thuộc Đề tài khoa học và công
Xã hội học giáo dục|Xa hoi hoc giao duc | PGS.TSKH. Nguyễn Văn Hộ | Loại: Giáo trình-Bài giảng-Giáo án | Nguồn: Trường ĐH Sư phạm - Đại học Thái Nguyên | Thư mục: Sư phạm - Giáo viên | xã hội học, giáo dục học, giáo dục|xa hoi hoc, giao duc hoc, giao duc Xã hội hoá giáo dục
Mới đây, tại buổi làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM với các sở, ban ngành về thực hiện chương trình, sách giáo khoa của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 mới đây, ông Cao Thanh Bình, Trưởng ban Văn hóa - Xã hội HĐND TP.HCM, chia sẻ qua khảo sát thực tế
Mann Mit Haus Sucht Frau Bayern. Xã hội hóa giáo dục là gì?Những lợi ích của xã hội hóa giáo dụcXã hội hóa giáo dục ở nước ta hiện nayXã hội hóa giáo dục là một quá trình phải được tiến hành một cách lâu dài. Chúng ta thường xuyên nghe tới “xã hội hóa giáo dục” nhưng ít ai có hiểu biết về xã hội hóa giáo dục. Trong bài viết lần này, chúng tôi sẽ cung cấp tới Quý độc giả một số kiến thức liên quan tới xã hội hóa giáo dục hiện hội hóa giáo dục là gì?Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, nhằm phát huy truyền thống hiếu học và tiềm năng con người trong quá trình xây dựng nền giáo dục hiện đại dưới sự quản lý của Nhà nước để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức hưởng thụ giáo dục của nhân hội hóa giao dục gồm hai thành phần chính– Xây dựng một xã hội học tập trong đó mọi người học tập thường xuyên, học tập suốt đời.– Vận động toàn xã hội tham gia đóng góp cho giáo lợi ích của xã hội hóa giáo dục+ Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược về giáo dục, chỉ đạp quá trình xây dựng và phát triển giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc, có tính cách mạng trong hoạt động thực tiễn, biến hoạt động giáo dục mang tính chuyên biệt chuyên môn và nghiệp vụ trong một lĩnh vực, một thiết chế giáo dục ngành giáo dục, trở thành một hoạt động học tập rộng lớn và sâu sắc bắt rễ vào các lĩnh vực đời sông vật chất, tinh thần của xã hội. Đảm bảo cho giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.+ Tạo ra một phong trào học tập sâu rộng trong xã hội dưới nhiều hình thức, thực hiện học tập suốt đời để người dân làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn, làm cho Việt Nam trở thành một xã hội học tập.+ Xã hội hóa giáo dục sẽ phát huy mọi tiềm năng trong xã hội về vật chất, trí tuệ, khoa học kỹ thuật, huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục với các mức độ khác nhau giúp giáo dục đạt quy mô rộng, tốc độ lớn, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển và tiến bộ giáo dục.+ Thực hiện xã hội hóa giáo dục là một giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược kinh tế – xã hội của Đảng và nhà nước. Công bằng không chỉ trong việc hưởng thụ người dân được Nhà nước và xã hội chăm lo mà còn trong việc đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người từng địa hội hóa là một quá trình mà cá nhân được hòa nhập vào trong xã hội hoặc vào trong một nhóm người thông qua việc học các quy tắc, giá trị đối với từng nhóm xã hội đó. Xã hội hóa còn được hiểu là quá trình biện chứng, trong đó mỗi thành viên trong nhóm người đều có hành động và duy trì nó để tái xuất xã hội. Hiểu một cách đơn giản theo một cách ngắn gọn thì xã hội hóa là sử dụng các tư liệu sản xuất để trao đổi giá trị thành của công. Ý nghĩa của xã hội hóa là tăng tính cộng đồng, giảm thiểu tối đa chủ nghĩa cá nhân trong các lĩnh vực trong xã hội hóa giáo dục ở nước ta hiện nayThứ nhất Cần nhận thức vì sao phải xã hội giáo dục và thế nào là xã hội hóa giáo dục ở nước ta hiện nayGiáo dục là hoạt động có mục đích, có định hướng, có tổ chức, có nội dung, yêu cầu nhằm tạo thế hệ trẻ thành lớp người kế tiếp lực lượng lao động mới có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật, có năng lực đảm đương và hoàn thành các nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước trong tương lai. Những hoạt động giáo dục được tiến hành trong điều kiện toàn cầu hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội hóa giáo dục với chúng ta là khái niệm mới, mặc dù đã nhắc đến nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nội hàm của nó còn có những cách hiểu khác nhau. Chính do cách hiểu khác nhau ấy mà có nhiều cách làm khác nhau, dẫn đến những chất lượng, hiệu quả khác hội hóa giáo dục là làm cho các hoạt động mang tính giáo dục của xã hội được huy động vào quá trình giáo dục một cách tích cực, có hiệu quả. Xã hội hóa giáo dục cũng có nghĩa là xã hội tham gia giải quyết một cách phù hợp những vấn đề giao dục đang đặt ra. Xã hội hóa giáo dục là đa dạng hóa các loại hình giáo dục; là mở rộng quy mô đáp ứng yêu cầu giáo dục của xã hội; là xây dựng cơ cấu ngành học, cấp học hợp lý; là kiểm soát được chất lượng đào tạo toàn diện và ngày càng nâng hai Những vấn đề đặt ra của quá trình xã hội hóa giáo dục ở nước ta hiện nayXã hội hóa giáo dục ở nước ta hiện này cần quan triệt và thực hiện những vấn đề chính cụ thể như sauXã hội hóa giáo dục về nội dung, chương trình giáo dục. Giáo dục là hoạt động tuân theo quy luật nhận thức của con người từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ nông đến sâu… việc xây dựng nội dung chương trình giáo dục cần phải tuân theo quy luật nhận thức đó. Việc hiện đại hóa giáo dục là thiếp thu, trang bị những tri thức, kiến thức hiện đại cho người học, nhưng phải căn cứ vào quy luật nhận thưc. Vì thế không bảo thủ, trì trệ hoặc đưa mọi cái mới bất kỳ vào giáo dục một cách thiếu chọn lọc làm cho không những không thực tế, thiếu hiệu quả mà còn phản tác dụng. Xã hội hóa giáo dục là xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phù hợp, thiết thực, có hiệu quả với từng loại đối tượng trong xã hội và xã họi phát huy tốt vai trò của mình trong quá trình giáo hội hóa giáo dục trong hệ thống tổ chức cơ sở giáo dục, cấp học, ngành học, huy động tài chính, kinh phí của xã hội. ở nhiều nước trên thế giới, người ta thực hiện xã hội hóa giáo dục trong lĩnh vực này bằng cách huy động các nguồn đóng góp tài chính của xã hội qua thuế và các nguồn thu khác để Nhà nước trực tiếp quản lý, đầu tư cho giáo dục. Vì vậy, họ thực hiện hệ thống giáo dục thống nhất, nhà nước chi phí đầy đủ, thường xuyên cho mọi nhà hội hóa giáo dục trong phương thức hoạt động giáo dục. Xã hội hóa giáo dục là xây dựng xã hội học tập, mọi người trong xã hội ở mọi lứa tuổi, mọi cương vị đều tự giác, say sưa, có nhu cầu học tập mà thế giới hiện nay đang trở thành xu thế phổ biến. Ở nước ta, hình thức xã hội hóa giáo dục này cần được khuyến khích, có chính sách và cơ chế, chế tài thích hợp để cổ vũ mọi người tự học.
1. Phát triển nguồn nhân lực Nhu cầu cấp thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH được quan niệm là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao và tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội trước hết là hoạt động sản xuất vật chất. Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc CNH, HĐH đã trở thành tất yếu của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII 7-1994 đã thông qua đường lối CNH, HĐH đất nước. Đảng ta xác định Trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN, CNH, HĐH là phương tiện, phương thức để đạt đến mục tiêu vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người. Hiện nay, CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn dân; là con đường duy nhất để “rút ngắn” quá trình phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước trên thế giới. Là một nước còn nghèo với kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, CNH, HĐH đối với Việt Nam là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Theo lý luận về “Hệ thống sản xuất lấy con người làm trung tâm” thì nguồn lao động luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội[1]. Nguồn lực quý báu, quan trọng nhất, quyết định sự phát triển và phồn thịnh của các quốc gia, cộng đồng trên thế giới không còn là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà là “nguồn nhân lực” với phẩm chất, tầm nhìn, kiến thức, kỹ năng cao. Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực bao gồm cả số lượng và chất lượng dân số, do đó phát triển nguồn nhân lực thực chất là liên quan tới cả hai khía cạnh trên. Tuy nhiên, hiện nay đối với thế giới và đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thì vấn đề nổi lên gay gắt là chất lượng dân số. Do đó, các nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực trong những thập niên gần đây chủ yếu tập trung vào nguồn nhân lực, tức chủ yếu tập trung vào vốn nhân lực được hiểu là lực lượng lao động có kỹ năng [2]. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao NNLCLC được xem là nguồn lực chính, nhân tố quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế -xã hội và quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác[3]. Tài nguyên trên thế giới ngày càng cạn kiệt, còn tri thức và sức sáng tạo của con người là vô hạn. Con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế -xã hội, là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phát triển thần kì. Tri thức - sản phẩm trí tuệ của con người được xem là nguồn tài nguyên lớn và quý báu nhất của nền kinh tế tri thức, là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững và là yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của quốc gia. Hiền tài, nhân tài và lao động trí thức đã trở thành một lực lượng sản xuất mới, giữ vai trò quyết định hơn cả vốn và tài nguyên. Nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, nhà tương lai Mỹ Avill Toffer cho rằng “tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên” [4]. Vì vậy, con người được xem là một “tài nguyên đặc biệt” và nguồn lực của sự phát triển và “phát triển tài nguyên con người” Human resources development trở thành vấn đề quan trọng nhất trong phát triển, vừa có tính chất “mục đích” vừa có tính chất “phương tiện”. Theo GS. Thurow [5] thì “sự khác biệt nhất trong cạnh tranh kinh tế trước đây và thời đại ngày nay là ở chỗ con người đang tạo ra lợi thế cạnh tranh. Vũ khí cạnh tranh quyết định ở trong thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của người lao động” [6]. Truyền thống Việt Nam cũng đã xác định “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” từ thực tiễn diễn ra trong lịch sử đương thời, Thân Nhân Trung đã có câu nói bất hủ khi viết bài ký Đề tên Tiến sĩ Khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại bảo thứ 3 1442 "...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...". Lời văn bất hủ của Danh sĩ Thân Nhân Trung từ hơn nửa thiên niên kỷ trước vẫn còn giá trị to lớn với chúng ta hôm nay và mai sau. Trong xu thế phát triển nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là NNLCLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản 1 Áp dụng công nghệ mới, 2 Phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và 3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là NNLCLC - tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực” the human capital. Giữa nguồn lực con người NLCN, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, KHCN…có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội [7]. Lực lượng nhà khoa học và quản lý trình độ cao là nguồn tài nguyên nhân lực chủ chốt cho phát triển kinh tế tri thức và cạnh tranh mỗi quốc gia. Chiến lược CNH, HĐH đất nước cần dựa vào sự dẫn dắt, thực hiện của các nhà khoa học và quản lý trình độ cao. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNLCLC, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, môi trường chính trị - xã hội ổn định. Mặt khác, các quốc gia có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu nhưng không thể nhập khẩu hay vay mượn được khả năng sáng tạo của con người. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia phát triển và mới nổi đều chú trọng thu hút, đào tạo, đãi ngộ nhân lực khoa học và quản lý trình độ cao. Là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nên phát triển nguồn nhân lực được xem là một yếu tố có tính chiến lược then chốt nhất cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và CNH, HĐH nói riêng. Quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp là do quy định của nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tùy thuộc vào năng lực của con người, vào chất lượng của NLCN. Phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực và đầu tư, chăm lo cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững, bảo đảm sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia và là chìa khóa của sự phát triển bền vững. Nhật Bản là một thí dụ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu gạo ăn khoai, sắn.... Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản phục hồi nhanh chóng 1945 –1654 và phát triển với tốc độ thần kỳ 1954 –1973, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ. Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự phát triển đất nước. Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công trong quá trình phát triển của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới NICs ở châu Á cho thấy người ta không chỉ chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới hoặc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, mà vấn đề then chốt hơn cả là biết khơi dậy và phát huy năng lực trí tuệ và sức sáng tạo to lớn của con người. Vì vậy, để thực hiện thành công CNH, HĐH và hội nhập quốc tế HNQT, cần phát triển nhanh NNLCLC, nhất là nguồn nhân lực đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Đào tạo và phát triển NNLCLC đang là một trong những vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, trong đó giáo dục và đào tạo đóng vai trò chủ yếu. Phát triển NNLCLC có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản lý doanh nghiệp, có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để tạo NNLCLC. Trọng tâm của đào tạo nhân lực phục vụ CNH, HĐH trước mắt là đào tạo khả năng về công nghệ, là “áp dụng công nghệ để tạo nên sự giàu có" kể cả “quản lý công nghệ”. 2. Giáo dục đại học trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, vào bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia nào muốn hưng thịnh đều phải lấy giáo dục làm trọng. Giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế -xã hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tri thức, thông tin và giáo dục là chìa khóa để bước vào lâu đài tri thức vô tận của con người. Nhận thức vai trò quan trọng của giáo dục trong việc tạo NNLCLC, các nước đều tăng cường sức mạnh cho giáo dục để tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Ở các nước phát triển, mô hình đại học nghiên cứu đã phát triển đến mức độ cao, gắn với hoạt động sáng nghiệp. Đại học vừa là các đầu tàu về tri thức, vừa là nền tảng văn hóa của xã hội; và đào tạo, phát triển NNLCLC thông qua giáo dục đại học GDDH được xem là quy luật tất yếu trong thời đại ngày nay. GDDH có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm chỉ ra rằng giáo dục đào tạo và CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với nhau; thậm chí giáo dục đào tạo là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ và thành công của sự nghiệp CNH, HĐH. “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[8]. Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH cũng chỉ ra rằng xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục. Giáo dục và đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với sự thành công của CNH, HĐH và CNH, HĐH với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa giáo dục và đào tạo [9]. Vì vậy, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và CNH, HĐH tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo phát triển theo hướng hiện đại. Là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đầu tư cho giáo dục phải được xem là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; đồng thời, giáo dục phải đi trước, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế -xã hội đất nước. Đào tạo NLCN, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ, lực lượng trí thức có đủ phẩm chất và tài năng bắt kịp trình độ phát triển của thế giới là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn, là vấn đề có tầm chiến lược và quyết định tương lai của đất nước. Vì vậy, công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá, tăng tốc mạnh mẽ trong thời gian tới. Thomas cho rằng, giáo dục là mệnh lệnh kinh tế và chính trị ở Việt Nam Ở "mệnh lệnh kinh tế" giáo dục là một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giúp giải thích tại sao các nền kinh tế này duy trì được tốc độ tăng trưởng cao khi hầu hết các nước đang phát triển tăng trưởng chậm lại. Ở "mệnh lệnh chính trị", giáo dục là khát vọng của con người Việt Nam[10]. Nhiệm vụ trực tiếp là phải tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Ngày nay, GDĐH là con đường tất yếu góp phần quyết định vào phát triển đất nước. Trường đại học được giao chức năng quan trọng là sáng tạo, chuyển giao tri thức, bảo tồn và phát triển văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực cao cho xã hội; trường đại học luôn mang trên mình những nhiệm vụ cao cả 1 Là nơi truyền đạt kiến thức khoa học, tri thức, văn hóa của loài người, những tri thức của xã hội, đất nước; không chỉ truyền đạt tri thức của quá khứ mà còn là tri thức của hiện tại và cả tương lai. Tri thức do chính trường đại học sáng tạo, phát triển và bổ sung. 2 Là nơi dạy cho sinh viên biết tư duy khoa học, biết phản biện, luôn khám phá, và đi đến tận cùng, mãi mãi của cái huyền bí khám phá khoa học. 3 Là nơi tạo môi trường và giúp người sinh viên tự rèn luyện để trở thành những công dân trí thức, nhận thức một cách rõ ràng trách nhiệm trước bản thân, gia đình, xã hội và đất nước Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG-HCM. Là trung tâm khoa học và đào tạo, nơi lưu trữ, sáng tạo và truyền bá tri thức, nơi đào tạo ra không chỉ là những người công dân, những người lao động có tri thức mà còn có nhiệm vụ cao hơn, là nơi chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo tương lai cho đất nước. Là một lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để cung cấp cho xã hội, GDDH được ưu tiên ở hầu hết các nước trên thế giới. Vươn tới những chuẩn mực quốc tế trong đào tạo và NCKH, đồng thời đào tạo NNLCLC để chủ động HNQT và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là sứ mệnh, là trách nhiệm lớn lao của các trường đại học. Vì vậy, các quốc gia phát triển nhanh đều có các trường trụ cột đại học, các chính phủ đều chú trọng đầu tư phát triển của GDĐH. Đặc biệt, trong các loại trường đại học nghiên cứu, ứng dụng và thực hành thì trường đại học nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Các trường đại học “tinh hoa mới” là cách nói khác của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của mỗi quốc gia, đào tạo nguồn nhân lực tài năng, chất lượng cao, nghiên cứu khoa học đỉnh cao, đóng vai trò hoa tiêu, dẫn đầu, tiên phong và trụ cột của nền GDĐH của đất nước hội nhập và cạnh tranh, phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa. Để thực hiện được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Việt Nam đang tiếp tục đổi mới sâu rộng và đồng bộ hơn; tập trung ưu tiên tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH, chủ động và tích cực HNQT. Tình hình trên đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo những yêu cầu mới, vẻ vang nhưng cũng nặng nề hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, phát triển NNLCLC và nền khoa học công nghệ tiên tiến. Hiện nay, nước ta đang triển khai thực hiện Cương lĩnh của Đảng, các Nghị quyết số 20/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị quyết số 29/NQ-TW về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Việc Đảng và Nhà nước đã chọn việc phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một trong ba khâu đột phá chiến lược đã giao trách nhiệm và là cơ hội phát triển cho các trường đại học nghiên cứu cũng như hệ thống GDĐH Việt Nam. Sơ đồ quy trình đào tạo và quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học[11] TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Bổ sung, phát triển năm 2011. 4. Nguyễn Phương Nga - Nguyễn Quý Thanh đồng chủ biên, Trịnh Ngọc Thạch, Lê Đức Ngọc, Nguyễn Công Khanh, Mai Thị Quỳnh Lan Giáo dục đại học Một thành tố của chất lượng, Nxb. ĐHQGHN, 2007. 5. Thomas Hai "mệnh lệnh" của giáo dục đại học [1] William Petty Nhà kinh tế học người Anh cho rằng “Lao động là cha, đất đai là mẹ” của mọi của cải vật chất. cho rằng con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. [2] Đôi khi các khái niệm “vốn nhân lực”, “nguồn vốn nhân lực” và “nhân lực” được dùng thay thế cho nhau. Phát triển nguồn nhân lực là một khái niệm rộng, liên quan đến quá trình nâng cao và khuyến khích đóng góp năng lực của người lao động cho quá trình sản xuất và định hướng chủ yếu của phát triển nguồn nhân lực là nâng cao trình độ chuyên môn và sử dụng hiệu quả nguồn lực đó. [3] Để chỉ NNLCLC, các tạp chí nghiên cứu về giáo dục, đào tạo và kinh tế thường sử dụng khái niệm lao động có kỹ năng cao High skill labours hoặc lao động chất lượng cao High quality labours. [4] Avill Toffer Power Shift Thăng trầm quyền lực [5] Lester Thurow Carl sinh ngày 7-5-1938 tại Livingston, Montana là giáo sư Kinh tế học người Mỹ, cựu hiệu trưởng của MIT Sloan School of Management, tác giả của nhiều cuốn sách về chủ đề kinh tế. [6] Nguyễn Phương Nga - Nguyễn Quý Thanh đồng chủ biên, Trịnh Ngọc Thạch, Lê Đức Ngọc, Nguyễn Công Khanh, Mai Thị Quỳnh Lan Giáo dục đại học Một thành tố của chất lượng, Nxb. ĐHQGHN, 2007, [7] Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện 1 Có đường lối kinh tế đúng đắn. 2 Biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. 3 Có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo. 4 Có đội ngũ các nhà doanh nhân giỏi. [8] Đảng Cộng sản Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Bổ sung, phát triển năm 2011. [9] Như các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho việc dạy học giúp cho giáo dục và đào tạo tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng chính yêu cầu của CNH, HĐH. [10]. Thomas Hai "mệnh lệnh" của giáo dục đại học [11] Nguyễn Phương Nga - Nguyễn Quý Thanh đồng chủ biên, Trịnh Ngọc Thạch, Lê Đức Ngọc, Nguyễn Công Khanh, Mai Thị Quỳnh Lan Giáo dục đại học Một thành tố của chất lượng, Nxb. ĐHQGHN, 2007,
Vai trò của lãnh đạo ảng, chính quyền các cấp là nhân tố quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều kiện cho việc XHHGD triển khai thuận lợi. XHHGD còn từ gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh lực lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường và cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh; các cơ quan, ban, ngành nhất là các ngành chức năng, có trách nhiệm đối với nhà trường như y tế, công an, bảo vệ, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học, các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện,...; các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo khả năng liên kết trong việc huy động các nguồn lực vật chất; bản thân ngành GD và T cũng là một đối tượng để XHHGD; các tổ chức quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các "nhà hảo tâm, tài trợ cho giáo dục"... Tuy nhiên, để chủ trương và nghị quyết đi vào cuộc sống rất cần các cấp lãnh đạo, đặc biệt là các bộ, ban, ngành từ trung ương đến địa phương triển khai thành các cơ chế chính sách và chế độ thật cụ thể. Dường như các doanh nghiệp, các nhà tuyển dụng vẫn đứng ngoài sự nghiệp giáo dục. Thật ít có doanh nghiệp bắt tay, mặn mà với các trường H, C; chưa hề đặt hàng yêu cầu chất lượng đầu ra; chưa hề đóng góp kinh phí hỗ trợ các sinh viên... và thực tế cho thấy không ít các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ cần có chính sách trả lương cao là tha hồ "hớt váng sữa", tha hồ chọn lọc người tài. Chúng ta đã và đang thua trên sân nhà như thế! Lại nói đến hệ thống các trường H, C ngoài công lập. Nhiều người vẫn đặt câu hỏi Vì sao các trường này khó tuyển sinh? Vì sao nhiều phụ huynh vẫn khuyên con em mình là có trượt trường công thì mới vào trường tư? Vì sao học phí các trường tư cao hơn các trường công...? Phải chăng có sự không bình đẳng giữa các trường H, C công lập được Nhà nước đầu tư và các trường H, C ngoài công lập đang phải gồng mình lên để tồn tại và phát triển, để nâng cao chất lượng và thương hiệu? Tôi vẫn hy vọng trong tương lai gần, với chủ trương XHHGD, sẽ không còn sự bất cập như vậy nữa! Nghị quyết "về đổi mới căn bản, toàn diện GD và T, đáp ứng yêu cầu CNH, HH trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã nêu Những thành tựu và kết quả của sự nghiệp giáo dục, trước hết bắt nguồn từ truyền thống hiếu học của dân tộc, sự quan tâm, chăm lo của ảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội, sự tận tụy của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, sự ổn định về chính trị cùng với những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những thành tựu của sự nghiệp giáo dục nói chung, đào tạo bậc C, H, sau H nói riêng, trước hết và cơ bản là chúng ta có đội ngũ các người thầy, cô tâm huyết, hiến dâng cho giáo dục. Những khó khăn của sự nghiệp giáo dục còn nhiều, nhưng sẽ là vô cảm khi ai đó nói rằng Nếu khó tuyển sinh thì các trường tự đóng cửa. Nếu không có tiền thì đừng mơ cho con đến trường. Những điều như thế và những tệ nạn trong ngành giáo dục hiện nay đang làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh người thầy giáo, làm băng hoại đạo đức thế hệ trẻ, làm mỗi chúng ta thật sự đau lòng. Không thể nêu hết các đề nghị, giải pháp trong mấy dòng ngắn ngủi, vì sẽ là khô cứng. Vấn đề mà ai cũng đều hiểu là phải thay đổi tư duy. Vì thế, giải pháp tốt nhất là mỗi người cần đọc, thấm nhuần và hiểu rõ Nghị quyết. Cần phân tích thực trạng cụ thể cơ sở của mình để đặt nhiệm vụ cho chính mình, khó khăn còn nhiều là tất yếu, khách quan chưa thuận lợi cũng là hiển nhiên. Có thế mới cần đồng lòng, cần đồng thuận, cần sáng tạo của mỗi người. Có vậy mới cần thủ trưởng kiên quyết và đủ tâm, đủ tầm. Có như vậy mới thực hiện được giải pháp mà Nghị quyết "ổi mới căn bản, toàn diện GD và T, đáp ứng yêu cầu CNH, HH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đề ra "ẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. ối với các ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và trường ngoài công lập". Hy vọng mỗi chúng ta, đặc biệt là những đảng viên cần gương mẫu, tuyên truyền, triển khai tích cực, chắc chắn Nghị quyết 8 Khóa XI sẽ thật sự là động lực để đổi mới căn bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục nước nhà.
xã hội hóa giáo dục đại học